Khang đang muốn nhắc tới quyển sách rất giản dị bởi tựa đề có tên 7 Thói Quen Để Thành Đạt (The 7 Habits of Highly Effective People) hay 7 Thói Quen Hiệu Quả | Stephen Covey mà chắc ai cũng từng nghe qua vài lần. Bởi vì, Quyển sách này đã phát hành lần đầu tiên từ rất lâu (1989). Và bởi sau 3 năm từ thời điểm được đón nhận quyển sách ở một phiên bản hết sức đặc biệt (Phiên bản kỷ niệm 30 năm của tác phẩm kinh điển vượt thời gian với những bổ sung hiện đại từ Sean Covey – con trai của Tiến sĩ người Mỹ Stephen R. Covey) hôm nay Khang mới có dịp tổng hợp lại những nội dung hay nhất của phiên bản đặc biệt này. Đại từ “Tôi” nếu có nhắc đến trong bài viết là chỉ tác giả Stephen R. Covey.

Tác phẩm này là một sản phẩm của tập thể. Tôi (Stephen R. Covey) bắt tay vào viết từ giữa thập niên 1970, khi tôi khảo cứu lại những áng văn về đề tài thành công trong hơn 200 năm qua cho chương trình tiến sĩ của mình. Tôi biết ơn vì đã tiếp nhận được nguồn cảm hứng và minh triết từ nhiều tư tưởng đi trước, cũng như những cội nguồn trí tuệ truyền đời.

Phần 1 MÔ THỨC & NGUYÊN LÝ

Việc nghiên cứu cho tôi cơ hội nhìn lại suốt 200 năm đối với các tác phẩm viết về thành công, và tôi để ý thấy có một mô thức tư duy nổi lên ở công trình nghiên cứu này. Bởi vì tôi đã trải qua những trăn trở đó, cũng như chứng kiến nó xảy ra trong cuộc sống và mối quan hệ của nhiều người mà tôi làm việc trong suốt đời mình, tôi bắt đầu càng lúc càng thấy rõ các tác phẩm viết về thành công trong vòng 50 năm gần đây đều rất hời hợt. Chúng toàn là về chuyện trau chuốt hình ảnh xã hội, các kỹ thuật và biện pháp xử lý chóng vánh – như chiếc băng dán vết thương hay liều aspirin để xoa dịu cơn đau hay đôi lúc cũng có thể tạm thời giải quyết được tình hình nhưng căn bệnh kinh niên thì vẫn âm thầm ủ dưới bề mặt và tái phát hết lần này đến khác.

Ngược lại, hầu hết các tác phẩm viết về thành công trong giai đoạn trước (150 năm đầu tiên) đều tập trung vào một thứ gọi là Đạo đức phẩm giá, xem đó là nền tảng của thành công – gồm tính chính trực, đức khiêm nhường, lòng trung thành, sự chừng mực, can đảm, công bằng, nhẫn nại, cần cù, giản dị, và Quy tắc vàng trong ứng xử. Quyển “Tự truyện của Benjamin Franklin” là minh họa tiêu biểu cho trường phái này. Quyền sách nói về một con người vĩ đại đã nỗ lực tích hợp các nguyên lý bất biến vào các thói quen gắn chặt với bản tính của người này.

Nhưng sau Thế chiến thứ nhất, tư tưởng chủ đạo về thành công đã chuyển từ Đạo đức phẩm giá sang Đạo đức tính cách.

Thành công chủ yếu được nhìn nhận dưới giác độ tính cách, hình ảnh xã hội, thái độ và hành vi, kỹ năng và chiêu thức để “lấy lòng” trong các giao tiếp giữa người với người. Quan điểm Đạo đức tính cách gồm hai xu hướng: một là những kỹ thuật giao tiếp xã hội giữa người với người, hai là thái độ sống tích cực (PMA -Positive Mental Attitude).

Từ mô thức (nếu nghĩ/ quan niệm/ não trạng) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó nguyên thuỷ là một thuật ngữ khoa học, và ngày nay được sử dụng rộng rãi với các nghĩa là “hình mẫu”, “lý thuyết”, “góc nhìn”, “giả định”, hoặc “khung tham chiếu”. Hiểu một cách tổng quát, mô thức là cách chúng ta nhìn nhận sự việc – không phải theo nghĩa chức năng thị giác, mà liên quan đến nhận thức, sự thấu hiểu và diễn giải sự thấu hiểu đó.

Mô thức của ta chính là khởi nguồn của thái độ và hành vi ta thể hiện.

Người ta càng trông cậy vào những giải pháp tạm bợ và tập trung vào những khó khăn bề nổi thì họ càng chôn sâu cái gốc rễ thật sự của mọi vấn đề. Cách ta nhìn nhận vấn đề mới chính là vấn đề.

💡So sánh “mô thức” (trong 7 Thói quen) và “mindset”

Khía cạnhMô thức (paradigm trong 7 Habits)Mindset
Phạm vi khái niệmRộng, cấu trúc — là mô hình nhận thức cơ bản, tập hợp giả định, nguyên tắc, cách diễn giải thực tại.Hẹp hơn hoặc linh hoạt hơn — là tập hợp niềm tin/ thái độ cụ thể về bản thân, khả năng, thế giới.
Tính học thuật/triết họcMang tính triết lý–paradigm (Covey dùng nhiều): thay đổi mô thức = thay đổi cách nhìn thế giới.Gần với tâm lý nhận thức; thường dùng trong thực hành (ví dụ: fixed vs growth).
Tốc độ thay đổiThường chậm, sâu, cần trải nghiệm, bằng chứng và phản tư (paradigm shift).Có thể nhanh hơn bằng can thiệp tâm lý (coaching, NLP, training), nhưng cũng có dạng cố hữu.
Ứng dụngDùng để phân tích và thay đổi cấu trúc hành vi hệ thống (ví dụ: từ “scarcity” → “abundance”)Thường áp dụng cho thay đổi cá nhân (ví dụ: “tôi có thể học được” vs “tôi không thay đổi được”).
Ví dụ nổi bậtMột phòng ban tin rằng “quy trình hiện hành là tốt nhất, không cần thay đổi” — đó là một mô thức về giá trị và hệ thống. Đổi mô thức này cần thuyết phục bằng dữ liệu, thí điểm, và thay đổi cấu trúc.Người trưởng phòng nghĩ “tôi không giỏi công nghệ” (fixed) → anh ta tránh các dự án số hóa. Thay đổi mindset có thể bắt đầu bằng khóa học ngắn, mentoring, và làm thử vài tasks thành công để tạo niềm tin mới.
Trong thực hành lãnh đạo & quản lýNếu mô thức hệ thống (ví dụ: “quan liêu là bản chất hoạt động”) không đổi, nhiều nỗ lực đổi mới sẽ bị phá hủy. Vì vậy phải thay mô thức từng bước (ví dụ: thí điểm → chứng minh → nhân rộng).Nếu mindset cá nhân (ví dụ: sợ rủi ro) không đổi, người lãnh đạo sẽ cản trở tiến triển. Mindset có thể thay bằng coaching, feedback và trải nghiệm thành công.

Làm sao để thay đổi – phương pháp đặc thù cho 02 khái niệm

Thay mô thức (paradigm shift)

  • Thực nghiệm và chứng minh: thí điểm nhỏ, số liệu, minh chứng thực tế.
  • Kể chuyện (storytelling): mô tả cách mô thức mới hoạt động trong bối cảnh cụ thể.
  • Thay đổi cơ cấu & chính sách: điều chỉnh quy trình, KPI, trách nhiệm để khung nhận thức mới được “cố định hoá”.
  • Lâu dài & hệ thống: cần lãnh đạo cấp cao cam kết, truyền thông liên tục.

Thay mindset (cá nhân / nhóm)

  • Phản hồi và coaching cá nhân: feedback cụ thể, hành động nhỏ, mentoring.
  • Tập trải nghiệm thành công: “small wins” để thay đổi niềm tin.
  • Tập thói quen phản tư: journaling, self-talk, reframing.
  • Đào tạo tập trung: workshop, role-play, learning-by-doing.

Mô thức lấy nguyên lý làm trọng tâm

Những nguyên lý mà tôi đang đề cập tuyệt nhiên không mang tính bí truyền, huyền nhiệm hay “tôn giáo”. Trong sách này không có một nguyên lý nào chỉ đúng với một đức tin hay tôn giáo riêng biệt, kể cả đức tin và tôn giáo của tôi. Trái lại, những nguyên lý này là một phần của tất cả tôn giáo lớn, cũng như nền triết học xã hội và hệ thống đạo đức nào đã trường tồn theo thời gian. Mỗi nguyên lý đều có tính hiển nhiên, và mỗi cá nhân dễ dàng chứng thực điều này, như thể những nguyên lý hay quy luật tự nhiên này là một phần của điều kiện con người, của nhận thức con người, của lương tâm con người. Chúng như tồn tại trong mỗi con người và luôn luôn ở đó dù điều kiện xã hội như thế nào, hay thậm chí dù có bị vùi dập và cô lập như thế nào đi nữa.

Chẳng hạn như trên nguyên lý về tính công bằng, người ta xây dụng nên khải niệm bình đẳng và công lý. Trẻ con dường như sở hữu một trì giác bản năng về tính công bằng cho dù điều kiện trải nghiệm của chúng đổi ngược nhau. Cùng như có rất nhiều cách để Lý giải hay đạt được công bằng, nhưng nhận thức về nó hầu như đều tương đồng ở khắp mọi nơi.

Với các nguyên lý về tính liêm chính và trung thực cùng vậy. Chúng hình thành nền tảng của niềm tin, nhân tổ thiết yếu cho quả trình hợp tác và sự trường thành dài hạn của mỗi cá nhân và tập thể.

Có một nguyên lý khác là phẩm hạnh của con người. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỳ đã nồi lên nguyên lý này. “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiền nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yểu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.”

Một nguyên lý khác là tính phụng sự, hay ý muốn cổng hiển. Hướng đến chất lượng hoặc sự ưu tủ cùng là một nguyên lý.

Cùng có nguyên lý về tiềm năng, với nội dung là chúng ta chỉ mới sử dụng một phần nhỏ khả năng của mình, vì thể, luôn có thể trưởng thành, phát triển, và giải phóng tiềm năng cùng như rèn giùa tài năng của bản thân. Liên hệ mật thiết đến nguyên lý về tiềm năng là nguyên lý về trưởng thành, tức quy trình giải phóng và phát triển tài năng của mỗi người, và nguyên lý này lại liên quan đến nhiều nguyên lý khác như tỉnh nhần nại, sự ân cần chăm sóc, và sự khích lệ động viên.

Tổng quan về 7 Thói quen

Thói quen cũng có sức mạnh khổng lồ như lực hút của trái đất, sức mạnh này to lớn hơn những gì con người có thể tưởng tượng ra nổi. Do đó, ta cần một sức mạnh tinh thần và một số thay đổi nhỏ để có thể phá vỡ được những thói quen bám rễ sâu trong mỗi chúng ta, chẳng hạn như tính trì hoãn, nóng vội, hay chê bai, ích kỷ mà đi ngược với những nguyên lý cơ bản về tính hiệu quả của con người. Cần rất nhiều nỗ lực ở giai đoạn “cất cánh”, nhưng cũng giống như khi phi thuyền đã thắng được lực hút trái đất, ngay sau đó, ta sẽ đến được phương trời tự do mới.

Cũng như bất kỳ một sức mạnh tự nhiên nào, lực hút trái đất có thể giúp sức hoặc có thể hạn chế ta. Nó vừa gắn kết thế giới này lại với nhau, giữ cho hành tinh quay quanh quỹ đạo, và xác lập trật tự cho vũ trụ. Nhưng lực hút (hay lực kéo) này, cũng như sức ỳ của các thói quen có thể ngăn cản ta đến những nơi cần đến. Đó là một nguồn năng lượng có sức mạnh to lớn mà nếu được sử dụng hiệu quả, ta có thể tạo ra một trật tự và sự kết dính cần thiết để đạt được hiệu quả trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Định nghĩa thói quen:

Ta hãy xem thói quen là tổng hoà của ba yếu tố: kiến thức; kỹ năng và khát khao. Kiến thức chính là mô thức về lý thuyết, tức những gì cần làm, và vì sao lại cần làm những việc ấy. Kỹ năng là cách thức để làm. Còn khát khao chính là động lực, là mong muốn làm việc đó. Để biến điều gì đó thành thói quen, ta phải có cả ba yếu tố trên.

Lối tư duy độc lập không phù hợp với thực tại có tính tương thuộc của thế giới này. Những người độc lập nào không đủ trưởng thành để tư duy và hành động một cách tương thuộc có thể là những cá nhân được việc chứ không phải nhà lãnh đạo hay người làm việc nhóm hiệu quả. Họ không có được mô thức về sự tương thuộc cần thiết để giúp họ thành công trong hôn nhân, gia đình và công việc.

Bản chất của cuộc sống này là tính tương thuộc rất cao. Nếu muốn đạt được hiệu quả tối ưu mà chỉ dừng lại ở cấp độ độc lập thôi thì cũng giống như cố chơi quần vợt bằng gây đánh gôn vậy, công cụ không phù hợp với thực tại.

Sự tương thuộc là một khái niệm cấp tiến và trưởng thành hơn rất nhiều. Nếu tôi thấy được mình tương thuộc về mặt thể chất thì tôi vẫn có thể tự chủ, có năng lực, nhưng vẫn nhận ra rằng tôi và bạn cùng hợp tác để đạt được thành quả lớn lao hơn cả những gì tốt đẹp nhất mà cá nhân tôi có thể đạt được khi làm một mình.

Định nghĩa về tính hiệu quả

Tính hiệu quả đích thực nằm ở sự cân bằng của hai yếu tố: Sản phẩm và Khả năng sản xuất. Sự cân bằng P/PC. P (Production) chính là kết quả mong đợi, còn PC (Production Capability) chính là khả năng sản xuất, tức năng lực hoặc nguồn lực mà tạo ra kết quả mong đợi.

Bạn không thể đối xử với con người theo cách chỉ thuần về hiệu suất. Bạn áp dụng hiệu suất khi nói về đồ vật, nhưng với con người, ta phải bàn về tính hiệu quả.

Phân biệt giữa các khái niệm “Hiệu quả” (Effectiveness), “Hiệu suất” (Efficiency), và “Năng suất” (Productivity)

Tiêu chíHiệu quả (Effectiveness)Hiệu suất (Efficiency)Năng suất (Productivity)
Định nghĩa/Bản chấtThể hiện việc đạt được các mục tiêu của tổ chức. Hiệu quả tập trung vào làm những việc đúng đắn (làm việc gì).Bao hàm việc đạt được các mục tiêu bằng cách sử dụng nguồn lực một cách khôn ngoan và tiết kiệm chi phí. Hiệu suất cao có nghĩa là sử dụng ít nguồn lực nhất để hoàn thành công việc.Số lượng công việc mà nhân viên đã làm trong một khoảng thời gian cụ thể, bất kể chất lượng như thế nào. Năng suất hầu như luôn luôn mang tính định lượng.
Dấu hiệu nhận biếtĐạt được các Mục tiêu (Objectives). Hoàn thành các kỳ vọng của tổ chức, được đo lường bằng mức độ thành công dựa trên tiêu chí đã thỏa thuận trước (ví dụ: KPI, mục tiêu).Tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực (lao động, tài chính, vật chất). Đạt được mục tiêu với chi phí thấp nhất.Lượng công việc hoàn thành trong một khoảng thời gian cụ thể.
Cách đo lườngĐo lường bằng mức độ hoàn thành Mục tiêu/KPI/Mục tiêu then chốt (Key Results) đã thỏa thuận trước.Đo lường bằng tỷ lệ đầu vào (nguồn lực) so với đầu ra (kết quả đạt được). Ví dụ: Phân tích chi phí sản xuất, chi phí nhân công, hoặc sử dụng hệ số hoàn vốn.Đo lường chủ yếu bằng số lượng: số giờ làm việc, số tiền đầu tư. Luôn mang tính định lượng.
Gợi ý chỉ số để theo dõiMục tiêu (Objectives): Thể hiện điều muốn làm (What). Kết quả then chốt (Key Results): Thể hiện mức độ đạt được mục tiêu (How). Các chỉ số KPI (Key Performance Indicators).Chi phí vận hành/đơn vị sản phẩm. Tỷ lệ sử dụng nguồn lực (Efficiency Ratio). Thời gian chu kỳ sản xuất (để giảm thời gian và chi phí).Số lượng sản phẩm/giờ công. Số lượng khách hàng phục vụ/giờ công. Tốc độ thực hiện nhiệm vụ (Task throughput).
Ví dụ minh họaMột nhân viên hoàn thành mục tiêu “Phát hành chức năng thông báo đẩy ở nhiều quốc gia khác nhau”. Hoặc đạt được kết quả then chốt: “Tăng 20% người truy cập quay lại trang web trong vòng một tuần”.Công ty làm phim hoạt hình cắt bỏ chi tiết nhỏ không cần thiết để giảm chi phí render trên máy tính. Hoặc, công ty GE giữ con người làm việc lâu hơn tại bộ phận kinh doanh để họ thông hiểu sâu hơn về sản phẩm, dẫn đến sử dụng nguồn lực có hiệu suất hơn.Số lượng bưu kiện được vận chuyển bởi UPS trong một giờ. Hoặc, số giờ mà các nhóm sản xuất dành ra để làm việc.
Mục tiêu trong quản trịĐạt được mục tiêu. Ví dụ: Một công ty ghi âm cần có khả năng tuyển dụng nghệ sĩ mới.Sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm chi phí. Ví dụ: Công ty ghi âm cắt giảm chi phí hoạt động và gia tăng lợi nhuận.Năng suất cao đạt được thông qua sự cân bằng giữa hiệu suất và hiệu quả thực hiện.

Phần 2: Thành công cá nhân

Thói quen 1 Sống kiểu kiến tạo

Theo quan điểm của học viên quản lý PACE thì có 4 thái độ sống mà chúng ta có quyền tự do lựa chọn cho mình trong cuộc sống hàng ngày và trong cả cuộc đời: Thụ động (Passive), Ứng phó (Reactive), Chủ động (Active), Kiến tạo (Proactive)

Khả năng “Tự nhận thức” (Mô thức bản ngã) khả năng suy nghĩ về quá trình tư duy của chính mình

Trong lúc đọc quyển sách này, bạn hãy cố gắng đứng tách mình ra và giữ một khoảng cách với bản thân. Bạn thử phóng ý thức của mình ra một góc phòng, rồi nhìn trở lại mình dưới con mắt của sự hiểu biết. Bạn có thể nhìn được bản thân ở góc độ của người thứ ba chứ?

Thử thêm một việc nữa nhé. Đó là bạn hãy nghĩ về tâm trạng của mình lúc này. Bạn nhận diện được nó? Bạn đang cảm thấy như thế nào? Nếu mô tả lại trạng thái tinh thần của bạn ngay lúc này, thì bạn sẽ mô tả ra sao?

Bây giờ bạn hãy dành một phút nghĩ về tâm trí của mình. Nó có nhanh nhạy và tỉnh táo không? Bạn có đang thấy mình bị giằng co giữa việc làm theo bài tập này với việc tự hỏi ý nghĩa của nó không? Khả năng thực hiện điều vừa diễn ra chỉ đặc biệt có ở con người. Các loài động vật khác không thể làm được như thế. Chúng ta gọi đó là “tự nhận thức”, hay khả năng suy nghĩ về quá trình tư duy của chính mình. Đó là lý do tại sao con người là loài thống trị trên thế giới, và tạo ra những bước tiến vượt trội từ đời này sang đời khác.

Trong những giây phút cùng cực, Frankl đã sử dụng khả năng thiên bẩm của mình là Sự tự nhận thức để phát hiện ra một nguyên lý căn bản về bản chất con người: Nằm giữa yếu tố kích thích và cách con người phản ứng với yếu tố đó là quyền tự do lựa chọn của họ.

Con người có quyền tự do lựa chọn ấy là nhờ những năng lực thiên phú – những khả năng chỉ con người mới có. Bên cạnh khả năng tự nhận thức, chúng ta có trí tưởng tượng – khả năng đưa tâm trí vượt ra khỏi thực tại. Chúng ta còn có lương tâm – là nhận thức sâu thẳm bên trong về những điều đúng – sai, về các nguyên lý chi phối hành vi của chúng ta, và việc liệu suy nghĩ và hành động của chúng ta có hài hòa với các nguyên lý đó không. Và cuối cùng, chúng ta có ý chí độc lập – khả năng hành động dựa theo cơ sở của sự tự nhận thức, tự do mà không bị chi phối bởi các yếu tố khác.

Thuật ngữ “Sống kiểu kiến tạo” khá phổ biến trong các tài liệu về quản trị, nhưng không dễ tìm thấy trong hầu hết các từ điển. Nó không chỉ đơn thuần là “khởi xướng một việc gì”. Nó mang ý nghĩa rằng trong tư cách con người, chúng ta lãnh nhận trách nhiệm kiến tạo cuộc đời mình. Hành vi của chúng ta như thế nào là do chúng ta quyết định, chứ không phải do hoàn cảnh sống quyết định. Chúng ta biết đặt các giá trị sống của bản thân lên trên cảm xúc. Chúng ta chủ động và nhận lãnh trách nhiệm làm cho mọi việc diễn ra.

Hãy nhìn vào từ “responsibility” (trách nhiệm), từ này được hình thành từ cụm “response ability” (khả năng phản ứng), hay nói rõ hơn là khả năng lựa chọn cách phản ứng của mình trước hoàn cảnh. Chỉ có những người có tinh thần kiến tạo mới nhận ra trách nhiệm này. Họ không đổ lỗi cho hoàn cảnh, điều kiện sống hay những yếu tố tác động đến hành vi của họ. Hành vi của họ chính là sản phẩm của những lựa chọn có ý thức dựa trên giá trị, hơn là sản phẩm của điều kiện sống dựa trên cảm xúc.

Trở thành “Người kiến tạo”

Tất cả chúng ta đều phải trải qua những giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, chính từ nghịch cảnh mà chúng ta có thể thực hành Thói quen 1, Sống kiểu kiến tạo, nhiều nhất. Thói quen này được thể hiện ở việc chúng ta có thể đặt quá khứ lại phía sau, học hỏi từ nó và hướng về tương lai. Bản chất của việc “sống kiểu kiến tạo” là trở thành “Người kiến tạo”, một người dừng lại những khuynh hướng, thói quen và khuôn mẫu tiêu cực từ quá khứ của thế hệ mình (như bạo hành, nghiện ngập hay bỏ rơi), và truyền đi những khuynh hướng, thói quen và khuôn mẫu tích cực hơn đến những người xung quanh. Chúng ta có thể dừng lại những khuôn mẫu tiêu cực này bằng cách sử dụng 4 khả năng thiên phú của con người: sự tự nhận thức (khả năng đứng tách biệt và quan sát suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của chính mình), lương tri (khả năng minh định giữa đúng và sai), trí tưởng tượng (khả năng hình dung những viễn cảnh mới), và ý chí độc lập (khả năng lựa chọn cách phản ứng của mình với hoàn cảnh).

Sự tự nhận thức là nền tảng của ba khả năng thiên phú còn lại. Vì chỉ khi bạn có thể đứng tách biệt và quan sát những suy nghĩ, cảm xúc bên trong, thì bạn mới có thể kết nối với lương tri, sử dụng trí tưởng tượng và đưa ra quyết định hiệu quả. Bạn không còn bị kiểm soát bởi những khuôn mẫu thói quen vô thức được hình thành từ quá khứ, như trường hợp của bạn tôi.

Thói quen 2 BẮT ĐẦU BẰNG ĐÍCH ĐẾN

Nếu bạn suy nghĩ cẩn trọng về những gì bạn muốn người khác nói về mình trong lễ tang của bạn ở tương lai, bạn sẽ tìm được định nghĩa về thành công của riêng bạn.

“Bắt đầu bằng đích đến” là thói quen dựa trên nguyên lý rằng tất cả mọi thứ đều được sáng tạo hai lần. Tư duy là sự sáng tạo đầu tiên, và hành động là sự sáng tạo thứ hai.

Hãy suy ngẫm những lời của Joseph Addison:

Khi ngước nhìn lăng mộ của những người vĩ đại, mọi cảm xúc ghen tỵ đều tan biến trong tôi; khi đọc những dòng chữ trên mộ bia của những con người đẹp đẽ, mọi ham mê thường tình cũng không còn nữa; khi tôi chứng kiến nỗi đau của những người làm cha mẹ trước bia mộ con họ, tim tôi tan chảy với lòng trắc ẩn; và khi tôi đứng trước mộ bia của chính những người làm cha mẹ, tôi nghĩ phải chăng hành động tiếc thương cho họ là quá hãnh tiến, vì không sớm thì muộn ta cũng nối gót theo họ: khi tôi thấy những vị vua nằm xuống bên cạnh những người muốn hạ bệ họ, tôi nghĩ về những mưu kế toan tính tranh giành luôn hiện hữu, hoặc khi nhìn cách những nhóm tôn giáo đã chia tách thế giới này vì tranh cãi và bất đồng, tôi nghĩ về nỗi thống khổ và kinh ngạc trước nạn cạnh tranh, bè phái và tranh cãi vốn rất ti tiện của con người. Khi tôi đọc các ngày tháng ghi trên bia mộ, của những người vừa mất ngày hôm qua, và cả của những người nằm xuống cách đây hơn sáu thế kỷ, tôi nghĩ về một ngày trọng đại mà tất cả chúng ta cùng nhau trở về một điểm xuất phát, cùng tái sinh.

Tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân

Con người không thể chịu đựng sự thay đổi nếu bản thân họ không có một cái lỗi bất biến bên trong. Chìa khóa để mang lại khả năng thay đổi chính là cảm nhận bất biến về mình là ai, là gì, và sống với giá trị gì.

Bản tuyên ngôn sứ mệnh không phải là thứ bạn có thể hoàn thành trong chốc lát. Nó đòi hỏi quá trình quan sát nội tâm sâu sắc, phân tích kỹ lưỡng, thường xuyên viết đi viết lại, hoàn thiện nhiều lần. Có thể nó tốn nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng trước khi bạn toại nguyện, cảm thấy nó là sự thể hiện hoàn chỉnh và súc tích nhất về định hướng cuộc đời và những giá trị sâu thẳm trong bạn. Thậm chí ngay cả như vậy, mỗi năm bạn vẫn nên xem lại để bổ sung hay điều chỉnh bởi có nhiều phát sinh trong cuộc sống hoặc hoàn cảnh thay đổi.

Một lời tuyên ngôn khẳng định đúng cần có năm yếu tố: mang tính cá nhân, tích cực, ở thì hiện tại, có thể hình dung, và đầy xúc cảm khi đọc vào. Ví dụ tôi có thể viết như sau: “Trong tư cách một người cha, không gì mãn nguyện và hạnh phúc (xúc cảm) bằng việc nếu tôi (mang tính cá nhân) hành xử (thì hiện tại) trong sự khôn ngoan, tình yêu thương, và tính tự chủ (tích cực) khi con tôi làm sai một điều gì đó.”

Cách lập ra bản sứ mệnh cá nhân

Cách tốt nhất để “Bắt đầu bằng đích đến” là lập ra bản sứ mệnh cá nhân. Sau khi đọc Thói quen 2, nhiều người thấy hào hứng làm việc này, nhưng vì bận rộn nên cứ mãi trì hoãn. Tuy nhiên, đó lại là việc quan trọng nhất, vì sứ mệnh cá nhân giúp định hướng cuộc đời và dẫn dắt mọi quyết định hàng ngày của bạn. Mấu chốt ở đây là đừng suy nghĩ nhiều quá và cố lập ra một phiên bản “hoàn hảo” ngay từ đầu. Thay vào đó, hãy bắt đầu viết và trau chuốt qua thời gian.

Sau đây là một vài ý tưởng để bạn làm điều đó:

Viết tự do. Ngồi xuống, bấm thời gian 15 phút và bắt đầu viết. Viết ra mọi ý nghĩ về việc bạn làm gì giỏi nhất (sự tự nhận thức), bạn cảm thấy mình cần làm gì (lương tri), và bạn sẽ làm gì nếu có nguồn lực vô hạn (trí tưởng tượng). Điều quan trọng là viết liên tục cho đến khi hết thời gian. Sau đó, bạn hãy đọc lại và chỉnh sửa để tạo ra phiên bản sứ mệnh cá nhân đầu tiên của mình.

Một ngày tĩnh lặng. Dành ra một ngày để đến một nơi nào đó yên tĩnh và mang lại cảm hứng cho bạn như công viên, đồi núi hoặc bãi biển. Ở đó, bạn hãy nghĩ về những điều quan trọng nhất đối với bản thân. Để có ý tưởng, bạn có thể viết ra câu trả lời cho các câu hỏi bên dưới.

Sau đó, bạn hãy tổng hợp và trau chuốt bản sứ mệnh cá nhân của mình.

  • Nghĩ về một người có ảnh hưởng tích cực đối với cuộc đời bạn. Người đó có những phẩm chất gì mà bạn cũng muốn rèn luyện ở bản thân?
  • Mô tả một thời điểm mà bạn được truyền rất nhiều cảm hứng
  • Nếu có thể dành cả một ngày trong thư viện để nghiên cứu bất kỳ điều gì mình muốn, thì bạn sẽ nghiên cứu điều gì?
  • 10 việc mà bạn đặc biệt thích làm là gì?
  • Nghĩ về một thứ đại diện cho bạn: một con vật, một bài hát, một chiếc xe, một địa điểm, v.v. Tại sao bạn chọn thứ đó?

Hoàn thiện. Bạn có thể thêm vào một câu trích dẫn, một đoạn nhạc hoặc đoạn thơ mà mình yêu thích. Khi tôi hướng dẫn các bạn tuổi teen lập ra sứ mệnh cá nhân, tôi thấy chúng thường không thích viết ra câu chữ dông dài, mà thích tô vẽ, cắt dán hình ảnh. Bạn cũng có thể làm như vậy.

Sử dụng mẫu có sẵn. Nếu bạn cần thêm hướng dẫn, hãy truy cập trang https://msb.franklincovey.com. Nó sẽ chỉ bạn từng bước cách thực hiện. Chỉ cần trả lời một vài câu hỏi, nhấp “in”, và bạn sẽ có một bản sứ mệnh cá nhân trong tay mình.

Thói quen 3 ƯU TIÊN ĐIỀU QUAN TRỌNG

E. M. Gray nhận xét: “Những người thành công có thói quen làm những điều người thất bại không thích làm. Bản thân họ tất nhiên cũng không thích, nhưng sự không thích này phải được khuất phục trước ý chí đạt được mục đích của họ”.

Để nói “Không” cần điều kiện gì? Bạn cần một quyết tâm “Có” mạnh mẽ bên trong với những ưu tiên của bạn để có thể nói “Không” với những thứ khác. Hãy nhớ rằng, khi ôm đồm bạn sẽ chẳng thể làm tốt nhất điều gì cả. Trong rất nhiều trường hợp, kẻ thù của “Tốt nhất” chính là “Tốt”.

Ta không sắp xếp ưu tiên những gì nằm trên lịch, mà hãy lên lịch thực hiện những ưu tiên của ta.

MỨC ĐỘKHẨN CẤPKHÔNG KHẨN CẤP
QUAN TRỌNGI. NGƯỜI TRÌ HOÃN / CÁC HOẠT ĐỘNG
– Khủng hoảng xảy ra
– Các vấn đề cấp bách- Các dự án đến thời hạn
– Những cuộc họp khẩn
– Công việc sắp đến hạn
– Những vấn đề cấp bách
– Những sự việc phát sinh
II. NGƯỜI HIỆU QUẢ / CÁC HOẠT ĐỘNG
– Những hoạt động mang tính dự phòng, hay nhằm nuôi dưỡng PC (Personal Capacity)
– Xây dựng các mối quan hệ
– Nhận diện những cơ hội mới
– Lập kế hoạch, thư giãn cân bằng
– Công việc quan trọng nhưng chưa đến hạn
– Những mục tiêu mang lại tác động lớn
– Tư duy sáng tạo
– Lập kế hoạch và phòng ngừa
– Xây dựng mối quan hệ
– Học tập và rèn luyện bản thân
KHÔNG QUAN TRỌNGIII. NGƯỜI VẮNG LỜI / CÁC HOẠT ĐỘNG
– Những việc chen ngang, các cuộc điện thoại
– Một số thư từ, báo cáo
– Một số cuộc họp đột xuất
– Những vấn đề bức xúc
– Các hoạt động bao đồng
– Những báo cáo không cần thiết
– Những cuộc họp không liên quan
– Những vấn đề nhỏ nhặt của người khác
– Những email, cuộc gọi, công việc ít giá trị
IV. NGƯỜI LƯỜI BIẾNG / CÁC HOẠT ĐỘNG
– Các việc không tên nhưng mất thời gian
– Một số thư từ
– Điện thoại tán gẫu
– Những việc lãng phí thời gian
– Những hoạt động giải trí vô bổ
– Những việc làm vô bổ
– Những hoạt động tránh né
– Nghỉ ngơi, xem tivi, chơi game, lướt web quá mức
– Nói chuyện tầm phào

Phần 3 THÀNH CÔNG TẬP THỂ

Thói quen 4 TƯ DUY CÙNG THẮNG

Cùng thắngThua – Thua
Thắng – ThuaChỉ cần mình thắng
Thua – ThắngCùng thắng hoặc Không giao kèo

“Cùng thắng” là mô thức dựa trên niềm ing mọi thứ luôn có đủ cho tất cả mọi người, và thành công c gười này không hề đe dọa thành công của người khác.

“Cùng thắng” chính là niềm tin về Giải pháp thứ Ba. Khôi hải là nếu không theo cách của bạn thì phải theo cách của tôi, n à có một cách thứ ba còn tốt hơn, còn cao hơn nữa.

Thói quen 5 THẤU HIỂU RỒI ĐƯỢC HIỂU

Thói quen 6 CÙNG TẠO CÁCH MỚI

Cái tổng thể luôn vĩ đại hơn tổng của từng thành tố. Hay một cộng một sẽ bằng ba, hoặc nhiều hơn.

“Cùng tạo cách mới” có nghĩa là 1 + 1 phải bằng được 8, 16, hoặc thậm chí là 1600. Với niềm tin và sự hợp lực cao độ, giải pháp được tạo ra tốt hơn nhiều so với những giải pháp được đề xuất ban đầu, và tất cả mọi người đều thừa nhận việc này. Hơn nữa, họ thật sự hài lòng về sự kết hợp sáng tạo của tất cả các bên. Họ hình thành nên một văn hóa mà tự thân nó là sự hài lòng của tất cả. Cho dù thời hạn có ngắn ngủi, nhưng trong văn hóa ấy có sự Cân bằng P/PC.

“Cùng tạo cách mới” bằng cách nào?

“Giải pháp thứ ba” không tự nhiên mà có, mà bạn phải đi đến đó. Nhìn chung, quá trình này bao gồm 5 bước đơn giản sau:

  1. Xác định vấn đề/ cơ hội là gì
  2. Cách của bạn (lắng nghe đồng cảm góc nhìn của người kia)
  3. Cách của tôi (chia sẻ chân thành quan điểm của mình)
  4. Động não (tạo ra các lựa chọn/ ý tưởng mới)
  5. Cách của chúng ta (Tìm ra giải pháp tối ưu)

Có một số tình huống mà không thể nào đạt được việc “Cùng tạo cách mới”, thế nhưng, trong chính những tình huống đó, sự chân thành nỗ lực đạt được kết quả cũng là một giải pháp thỏa hiệp, nhưng ở cấp độ cao.

Howard Gardner, giáo sư tại Đại học Harvard, đề xuất có 9 loại hình thông minh, và cho rằng mỗi cá nhân đều sở hữu ít nhất một trong số này:

  1. Thông minh không gian: Khả năng tự định vị trong không gian, lớn và nhỏ.
  2. Thông minh ngôn ngữ: Khả năng làm việc với từ vựng, nói và viết.
  3. Thông minh logic & toán học: Khả năng làm việc với con số, suy nghĩ logic và lập luận.
  4. Thông minh vận động: Khả năng sử dụng cơ thể, phản xạ, khéo tay.
  5. Thông minh âm nhạc: Nhạy cảm với âm thanh, âm sắc, nhịp điệu, cao độ.
  6. Thông minh xã hội: Nhạy cảm với tâm trạng của người khác; khả năng xây dựng mối quan hệ, hợp tác, làm việc nhóm.
  7. Thông minh nội tâm: Khả năng tự nhìn nhận, thấu hiểu cảm xúc của bản thân.
  8. Thông minh thiên nhiên: Khả năng phân biệt giữa các loài động vật, cây cối và những thứ khác trong thế giới tự nhiên.
  9. Thông minh triết học: Khuynh hướng đặt những câu hỏi lớn về cuộc sống và tìm kiếm câu trả lời.

Phần 4 TỰ RÈN MỚI

Thói quen 7 RÈN MỚI BẢN THÂN

Việc rèn mới bản thân trong ba chiều kích đầu tiên – thể chất, tinh thần và trí tuệ – là một quá trình thực hành mà tôi gọi là “Thành công cá nhân mỗi ngày”. Tôi khuyến cáo bạn hãy dành ra một giờ để thực hành mỗi ngày mà thôi – chỉ cần một giờ mỗi ngày cho đến hết cuộc đời.

Nếu xét trên giá trị và thành quả mang lại, thì không có bất kỳ hoạt động nào xứng đáng với một giờ quý báu của bạn hơn quá trình thực hiện “Thành công cá nhân mỗi ngày”. Quá trình này sẽ ảnh hưởng đến mọi quyết định, và mối quan hệ của bạn trong cuộc sống. Quá trình này thật sự giúp bạn gia tăng chất lượng và tính hiệu quả của từng khoảnh khắc còn lại của bạn trong ngày, nó thậm chí còn quyết định độ sâu và sự bình an của giấc ngủ. Quá trình này nâng cao sức mạnh thể chất, tinh thần, và trí tuệ của bạn một cách lâu dài và bền vững, nhằm giúp bạn có khả năng đương đầu với những thử thách lớn hơn trong đời.

Học giả đại tài Goethe từng nói: “Đối đãi với một người qua hiện trạng của anh ta, anh ta sẽ ở mãi hiện trạng ấy. Đối đãi với một người qua tiềm năng của anh ta, anh ta sẽ trở thành người mà anh ta có thể trở thành và nên trở thành.”

Mức độ an toàn về tài chính không phụ thuộc vào công việc của bạn, nó được quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị của bạn – khả năng tư duy, học hỏi, sáng tạo và thích nghi. Sự độc lập thực sự về tài chính không phải nằm ở của cải, mà ở khả năng tạo ra của cải. Sự tự do tài chính đến từ bên trong.

Thành công cá nhân mỗi ngày – hãy dành tối thiểu một giờ mỗi ngày để làm mới thể chất, tinh thần và trí tuệ – đó là chìa khóa để phát triển cả “7 Thói quen”, và điều này hoàn toàn nằm trong Phạm vi ảnh hưởng của bạn. Hoạt động này thuộc Góc phần tư thứ hai (II), thế nên, hãy tập trung thời gian cần thiết để tích hợp những thói quen này vào trong cuộc sống của bạn, và hãy lấy các nguyên lý làm trọng tâm cho cuộc sống.

Emerson: “Nếu kiên trì, việc sẽ dễ dàng hơn, không phải vì bản chất của việc đó thay đổi, mà vì năng lực của ta đã được nâng cao.”

Bằng việc đặt cuộc đời ta xoay quanh những nguyên lý đúng đắn và tạo ra một trọng tâm cân bằng giữa hành động và nâng cao khả năng hành động, ta có sức mạnh để tạo nên cuộc đời sáng tạo, hiệu quả, hữu ích và thanh bình cho chính ta, và cho cả hậu duệ của ta nữa.

Tổng hợp 21 Thực hành Hiệu quả

Thành công cá nhân

Thói quen 1

1. Tạm ngừng và phản ứng dựa trên các nguyên lý và kết quả mong muốn. 2. Sử dụng “ngôn ngữ chủ động”. 3. Tập trung vào “Phạm vi ảnh hưởng”. 4. Trở thành “Người kiến tạo”.

Thói quen 2

5. Xác định kết quả trước khi hành động. 6. Xây dựng và sống với “Bản sứ mệnh cá nhân”.

Thói quen 3

7. Tập trung vào những việc có ưu tiên cao nhất. 8. Loại bỏ điều không quan trọng. 9. Lập kế hoạch mỗi tuần. 10. Suy xét kỹ mỗi khi đưa ra lựa chọn.

Thành công tập thể

11. Xây dựng “Tài khoản tình cảm” với người khác

Thói quen 4

12. Nuôi dưỡng “Tâm thức dồi dào”. 13. Cân bằng giữa lòng can đảm và sự cân nhắc. 14. Cân nhắc về thắng lợi của người khác và của chính mình. 15. Tạo ra “Thỏa thuận cùng thắng”.

Thói quen 5

16. Thực hành “Lắng nghe đồng cảm” 17. Chia sẻ góc nhìn của mình một cách chân thành và tôn trọng.

Thói quen 6

18. Xem trọng sự khác biệt. 19. Tìm kiếm “Giải pháp thứ ba”.

Thói quen 7

20. Đạt được “Thành công cá nhân mỗi ngày”. 21. Cân bằng giữa “kết quả” và “khả năng tạo ra kết quả”.

3 điều quan trọng mà tác giả luôn tin tưởng một cách sâu sắc:

Thứ nhất là cách tiếp cận “Từ trong ra ngoài”. Khi bạn phải đối mặt với một thử thách bên ngoài, hãy bắt đầu từ bên trong. “Thành công cá nhân” phải đi trước “Thành công tập thể”. không thể đảo ngược quá trình này. Mọi sự thay đổi bắt đầu từ chính bạn. Bất kỳ khi nào bạn nghĩ rằng vấn đề nằm ở ngoài kia, thì chính suy nghĩ đó là vấn đề.

Thứ hai, mô thức là nền tảng. Chúng ta dành quá nhiều thời gian vào việc thay đổi thái độ và hành vi, và quá ít vào việc thay đổi mô thức, tức cách nhìn của ta về thế giới. Điều này cũng giống như việc chỉ tập trung vào cành lá mà quên đi gốc rễ. Để tạo ra sự thay đổi thực sự, bạn phải làm việc ở cấp độ nền tảng này trước tiên.

Thứ ba, nguyên lý mới là thứ chi phối toàn bộ cuộc sống, chứ không phải chúng ta. Nếu những mô thức và thói quen của chúng ta càng thuận theo các nguyên lý của tính hiệu quả như sự trách nhiệm, sự hợp lực, sự rèn mới…, thì chúng ta sẽ càng hạnh phúc và thành công về lâu dài. Không có lối đi tắt cho việc đó.

Về 7 Thói quen kém hiệu quả

(Viết bởi Sean Covey)

Thói quen 1: Sống kiểu phản ứng

Bạn đổ lỗi mọi vấn đề của mình cho người khác hoặc hoàn cảnh, như đổ lỗi cho sếp, bố mẹ, vợ chồng, hay cho chính phủ, nền kinh tế, di truyền, v.v. Bạn là nạn nhân, không chịu trách nhiệm cho cuộc đời mình. Nếu đói, thì bạn ăn. Nếu tức giận, thì bạn chửi bới. Nếu người khác công kích bạn, thì bạn công kích lại.

Thói quen 2: Tầm nhìn hạn hẹp

Bạn không lập mục tiêu và kế hoạch. Bạn sống buông thả và không lo lắng về hệ quả của những hành động của mình. Gió thổi hướng nào, bạn xuôi theo hướng đó.

Thói quen 3: Nước đến chân mới nhảy

Bạn làm những việc không quan trọng trước tiên, như ngay lập tức trả lời mọi cuộc điện thoại hay tin nhắn đến. Những việc quan trọng, bạn trì hoãn và đợi nước đến chân mới nhảy. Bạn không lo lắng về việc củng cố các mỗi quan hệ của mình, vì chúng vẫn còn ở đó mà. Bạn không để tâm đến việc tập thể dục, vì bạn vẫn còn khỏe mạnh mà. Việc quan trọng nhất là lướt mạng xã hội và xem video vô bổ trên Youtube.

Thói quen 4: Tư duy thắng – thua

Bạn nhìn cuộc sống như một cuộc cạnh tranh khốc liệt. Người khác không đáng tin, nên tốt nhất là luôn nghi ngờ. Bạn không chấp nhận sự thành công của người khác, vì nếu họ thắng, thì có nghĩa là bạn thua. Và nếu bạn thấy có vẻ như mình sẽ thua, thì tốt nhất là làm người khác cùng thua với bạn.

Thói quen 5: Chỉ muốn nói, và giả vờ lắng nghe

Bạn được sinh ra với một cái miệng, nên phải tận dụng nó. Nói thật nhiều. Đảm bảo người khác hiểu góc nhìn của bạn trước, rồi sau đó giả vờ lắng nghe họ bằng cách gật đầu chiếu lệ trong khi nghĩ về việc nên đáp lại họ như thế nào.

Thói quen 6: Cách của tôi luôn là tốt nhất

Ý tưởng của người khác là thấp kém. Tại sao phải làm việc nhóm khi mà sự hợp tác chỉ làm chậm mọi thứ lại? Bạn nên làm mọi việc một mình, vì ý tưởng của bạn luôn là tốt nhất. Bạn trở thành ốc đảo với những người xung quanh.

Thói quen 7: Vắt kiệt sức

Bạn quá bận lái xe đến nỗi không dành thời gian để đổ xăng. Cuộc sống quá bận rộn cho việc rèn mới bản thân. Những việc như tập thể dục, đọc sách, viết nhật ký, nghỉ ngơi, xây dựng mối quan hệ… đều là lãng phí thời gian. Bạn vắt kiệt sức mình.

Công cụ Khám phá Hành Trình Kiến Tạo Mục Đích cá nhân

Ứng dụng không thu thập dữ liệu, thông tin của bạn được lưu cục bộ trên trình duyệt

tmkhang.work - journey-to-personal-purpose
Trải nghiệm trực tiếp tại đây https://tmkhang.work/journey-to-personal-purpose/