Giọng đọc bài viết được tạo bởi AI (generated by AI).
“Trầm cảm gây khuyết tật, nhưng nó là một thương tích vô hình. Nếu người đi xe lăn khiến người khác động lòng trắc ẩn và sẵn sàng giúp đỡ thì người mang khuyết tật vô hình không những không được hưởng một sự ưu tiên nào mà còn bị đánh giá (Định kiến và Kỳ thị: “cứ diễn”; “làm trò”; “giả vờ”; “điên khùng kiểu Tây”; “có làm sao đâu”; “yếu đuối – kém cõi”; “chưa làm được gì cho bố mẹ”; “giễu cợt”; “đang kiếm cớ để lười”; “ác cảm”; “không có trách nhiệm”; “miệt thị, mắng mỏ, chỉ vì một thằng con trai”; “từng tuổi này rồi mà còn nghĩ tới chuyện tự tử”; “nó tâm thần, biết cái gì đâu”; “đồ thần kinh, không đáng tin”; “tự tưởng tượng và dựng chuyện ra”) , bởi vì họ được so sánh với người lành lặn.”
Căn bệnh này không chỉ vô hình vì người ta không dễ dàng nhìn thấy, nó vô hình bởi nó bị giấu kín.Tác giả Đặng Hoàng Giang
Người bị ung thư từ chối hoá trị vì tác dụng phụ thì được thông cảm và thương cảm. Nhưng nếu người tâm thần từ chối thuốc vì tác dụng phụ thì họ bị coi là không có khả năng suy nghĩ. Không phải lúc nào người tâm thần cũng tâm thần. Đa phần là người ta tỉnh. Nhưng mọi người lại cho rằng đa phần là người ta hoang tưởng.
Những miêu tả “vừa dữ dội vừa tê tái”
- Anh kể là người anh bị chảy thượt ra, tay anh thõng xuống, bước chân anh lệt xệt. Buổi tối mắt anh cứ trợn lên mà không đóng lại được.
- Không ngồi được lâu trước máy tính, não anh nhanh bị trơ, các suy nghĩ trở nên ì ạch, và cố gắng tập trung khiến anh kiệt sức.
- Một môi trường phi logic, phi quy luật (thất thường)
- Anh đánh mất cảm nhận về ranh giới giữa cái bình thường và cái bất thường, và quay lại hoài nghi bản thân.
- Tôi thấy cô độc trong thế giới đầy hiểm nguy, không có ai bên cạnh, bảo vệ mình.
- “Chết khó quá nên tôi ước mình không được sinh ra.”
- “Khi thở một hơi dài chừng ba hay bốn giây, đặt hết sự chú tâm vào trong hơi thở thì trong thời gian 3 hay 4 giây đó ta buông được quá khứ và tự do liền có mặt”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn Tri kỷ của Bụt.
- “Những ý tưởng chảy như thác, những ý tưởng nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác. Suy nghĩ lỏng như nước, và đi kèm với cảm giác quyến rũ và loạn thần là mọi thứ trong vũ trụ đều được kết nối với nhau.” – Kay Jamison
- “Khi tôi phát hiện ra con dao lam, tự hại trở thành một cử chỉ của hy vọng. Ở lần đầu, khi tôi 12 tuổi, nó giống như một điều kỳ diệu, một sự soi rạng. Lưỡi dao trượt vào da tôi, dễ dàng, không đau đớn, như một con dao nóng đi qua bơ. Chớp nhoáng và tinh khiết như một tia chóp, nó tạo ra một đường biên tuyệt đối và nguyên khôi giữa trước và sau. Toàn bộ sự hỗn loạn, âm thanh và cuồng nộ, cái bất định, rối rắm, tuyệt vọng, bốc hơi trong khoảnh khắc. Khi đó, tôi thấy mình chắc chắn, tiếp đất, mạch lạc và toàn vẹn.” – Tác giả Caroline Kettlewell
- Cánh tay thương tích của Uyên trò chuyện với chính Cô (sau khi Uyên tự hại bằng cách lấy dao rạch lên tay mình). “… Cậu và mình đứng nép sau cánh cửa nhà tắm, máu cứ rỏ từ thân của mình xuống làm loang lổ cái sàn gạch men trắng. Mình thấy cậu khóc, cậu lấy phần bả vai để quệt nước mắt. Mình buồn quá, mình không lau nước mắt cho cậu được vì mình đang chảy máu.”
“Người ta có thể chịu đựng và sống sót qua gần như mọi thứ nếu họ nhìn thấy cái kết. Trầm cảm xảo trá ở chỗ nó khiến người ta không thể nhìn thấy điểm kết thúc. Cái đám sương mù đó là một cái chuồng không có ổ khoá.”

Toàn cảnh
Trầm cảm xuất hiện ở mọi nơi, trong mọi gia đình. Nó không chỉ có ở trong giới trẻ, “vì chúng vốn thất thường trong cảm xúc“. Không chỉ ở người học hành cao, “vì họ suy nghĩ quá nhiều” Không chỉ ở trong giới văn nghệ sĩ, “vì họ quá nhạy cảm.” Không chỉ ở người có kinh tế đầy đủ, “bởi người nghèo lo kiếm sống thì lấy đâu ra thời gian mà trầm cảm.“
Phụ nữ mắc trầm cảm nhiều gấp đôi nam giới, và sự khác biệt này bắt đầu xuất hiện sau thời điểm dậy thì – trước đó, tỷ lệ trầm cảm ở trẻ em nam thậm chí còn nhỉnh hơn một chút. Đã có nhiều cố găng giải thích sự chênh lệch này, dựa trên những khác biệt về hormone, các áp lực liên quan tới vai trò và trách nhiệm của nữ giới trong xã hội, hay việc sinh nở, tuy nhiên tới giờ vẫn chưa có giả thuyết nào thực sự thuyết phục.
Những thống kế tại một thời điểm nhất định
- 1/3 các phụ nữ sinh đẻ ở TPHCM có những triệu chứng của trầm cảm sau sinh (Nghiên cứu của Harry Minas 2017).
- Trong số các sinh viên y khoa ở VN, cứ sáu SV thì có một người có đủ các yếu tố của trầm cảm và tầm một nửa số đó có ý định tự sát.
- Ở trẻ em trầm cảm ít xảy ra hơn, và nếu có thì thường là do hệ quả và biến chứng của tự kỷ hay rối loạn hành vi mang tính gây rối. Và khi không được tiếp xúc với những ứng xử và trợ giúp hợp lý từ môi trường xung quanh.
- Trung bình mỗi một lớp học sẽ có 1 em đang vật lộn với trầm cảm.
- Hiện tượng tái xuất hiện hay tái phát xảy ra ở 50% đến 80% người trầm cảm.
- Nếu bạn đã từng bị 2 lần trầm cảm ghé thăm (2 episode) thì xác suất 70% sẽ có lần thứ 3 đến thăm bạn. Và xác suất này càng tăng cho những giai đoạn tái xuất hiện tiếp theo. (Càng về sau sẽ càng nặng, khoảng cách giữa chúng sẽ càng ngắn lại, và chúng sẽ càng dễ xuất hiện một cách độc lập mà không cần phải do một sự kiện tiêu cực nào kích hoạt. Sau càng nhiều giai đoạn thì sự phá huỷ của bệnh càng lớn và rủi ro tự sát cũng càng cao.).
- Nhiều người rất thờ ơ khi người thân mình vật lộn với các cơn trầm cảm, nhưng vô cùng lo lăng và chăm sóc tận tình khi người này sốt hay đau bụng. Người ta không hiểu và không tin vào sức phá huỷ của trầm cảm và gánh nặng của nó chất lên cuộc sống của người có bệnh, lên nền kinh tế và xã hội. Gánh nặng của bệnh tật này hay được đo lường bằng một chỉ số mang cái tên “năm sống được điều chỉnh theo khuyết tật” (disability adjusted life year – DALY).
- Cứ ba người trầm cảm thì có một người đã hoặc sẽ nghĩ tới tự sát. Phụ nữ bị trầm cảm nhiều gấp đôi nam giới, nhưng nam giới lại chết bởi chính bàn tay mình nhiều hơn, và cái chết của họ cũng bạo lực hơn.
- Tỷ lệ người mắc PTSD – Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương, trong một năm bằng một nửa của tỷ lệ trầm cảm. Cấu tạo gene được cho là đóng góp 30% vào rủi ro phát sinh PTSD.
- Người ta cũng nhận ra là phần não bộ hippocampus của người bị PTSD có dung lượng nhỏ hơn, phần này phụ trách quá trình học, nhận thức xã hội, trí nhớ và xử lý cảm xúc. Ngoài ra, những vùng não trước trán, liên quan tới quá trình lên kế hoạch, ra quyết định, hành xử xã hội, cũng có dung lượng giảm thiểu.
- Trong một khảo sát ở Mỹ đầu thập kỷ 1990, một phần ba số người có rối loạn lưỡng cực không được trị liệu mười năm sau khi có biểu hiện. Hai phần ba nhận được ít nhất một chẩn đoán sai trước khi được chẩn đoán chính xác, thường là nhiều năm sau. Trung bình, mỗi người đã phải gặp hơn ba bác sĩ trước khi được chẩn đoán đúng.
- 1/3 người Nhật tin rằng “yếu đuối là nguyên nhân gây ra trầm cảm” Tại Mỹ, một trong bốn người cho rằng việc thừa nhận mình trầm cảm sẽ ảnh hưởng tới quan hệ bạn bè của họ. Chín trong mười người Anh tin rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của họ. – điều này là thiếu hiểu biết và thể hiện những định kiến về trầm cảm.
Trầm cảm đến rồi đi. Tuy nhiên nếu không được trị liệu các giai đoạn của trầm cảm (episode) có thể kéo dài tới 5 tháng ở các trường hợp nhẹ và vừa và tới 8 tháng với các trường hợp nặng.
2007, cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu dán lên vỏ thuốc cảnh báo là Thuốc trầm cảm làm tăng rủi ro cho các hành vi tự sát từ lứa tuổi hai mươi lăm trở xuống. Anh và hội đồng chung châu âu khuyến cáo không dùng thuốc trầm cảm cho trẻ em dưới 18 tuổi vì hiệu quả của chúng cho lúa tuổi này là không rõ ràng trừ Fluoxetin và các trường hợp nặng.
Phần lớn các hành vi tự sát mà được cho là liên quan tới thuốc xảy ra trong khoảng sáu tháng, sau thời điểm liệu pháp dược bắt đầu. Hiện tượng này thật khó hiểu, chẳng phải khi trầm cảm thuyên giảm thì về logic rủi ro tự sát cũng phải giảm theo hay sao? Các nhà nghiên cứu Matthews và Fava cung cấp một lý giải: Trong một khoảng thời gian nhất định, sau khi người trầm cảm bắt đầu dùng thuốc, mức năng lượng của họ đã được cải thiện trong khi các triệu chứng khác như là cảm giác tuyệt vọng hay chán nản thì chưa, khiến người trầm cảm vẫn có thể ở trạng thái muốn tự sát mà giờ đây lại có khả năng thực hiện ý đồ của mình.

Từ thời Hy Lạp đã có những ghi chép đầu tiên về những biểu hiện của Trầm Cảm
- “Buồn bã, suy sụp, gầy gò bởi lo lắng và mất ngủ”…..“Ở giai đoạn sau, họ than vãn về vô vàn sự vô nghĩa và mong muốn được chết” (Areteaus)
- “Họ ngồi trước cửa nhà trong quần áo bẩn thỉu, kể lể về tội này hay lỗi kia của mình và sợ hãi chứ không còn hứng thú gì nữa kể cả với những lễ hội ngợi ca các vị thần.” (Plutarch)
Mô hình nhận thức của Beck
Aaron Beck cho rằng các phản ứng trong hành vi hay cảm xúc là hệ quả của những đánh giá trong nhận thức. Nói cách khác, các triệu chứng liên quan tới nhận thức xảy ra trước và gây ra những triệu chứng liên quan tới cảm xúc, tâm trạng và hành vi. Ví dụ suy nghĩ rằng người khác thấy mình là một kẻ buồn chán sẽ dẫn tới cảm xúc buồn bã và tâm trạng U ám cũng như hành vi thu mình lại trước người xung quanh.
Niềm tin sai lệch tiềm ẩn từ những trải nghiệm tiêu cực
Những trải nghiệm quá khứ bất lợi khiến người ta phát triển niềm tin Lệch lạc về bản thân, về xung quanh và về tương lai hoặc bị tiêm nhiễm cảm giác mình bất lực trước cuộc sống. Tất cả những điều này tạo nên sự tổn thương, khuynh hướng trầm cảm. Chúng làm suy yếu sức kháng cự của một cá nhân chỉ cần một cú đẩy mới một sự kiện tiêu cực mới họ có thể gục ngã.
Những trải nghiệm thơ ấu tiêu cực sẽ khiến niềm tin sai lệch hình thành những niềm tin sai lệch có thể nằm im đó nhiều năm thậm chí nhiều thập kỷ nhưng khi có một yếu tố stress ngoại cảnh liên quan xuất hiện và gợi nhớ lại các tình huống quá khứ khiến niềm tin được hình thành sẽ tạo ra những suy nghĩ tiêu cực tự động – chúng có thể thoáng qua như một tia chóp. Gọi là tự động vì chúng xuất hiện ngay lập tức sau sự kiện gây stress chúng ở bên dưới của Ý thức và thường người ta không biết là mình có những suy nghĩ này trừ khi nắm bắt được những kĩ thuật như là chánh niệm.
Sự tiêu cực của chúng thường xoay quanh ba trục: bản thân, thế giới và tương lai. về bản thân “mình là một kẻ vô dụng”, về thế giới “không ai ưa thích mình cả” và về tương lai “mọi thứ vô vọng, sẽ như thế này mãi thôi”
Theo Beck người trầm cảm có những thiên vị trong cơ chế suy luận và tiếp nhận thông tin, họ bị rơi vào các bẩy trong suy nghĩ. ví dụ họ rơi vào bẩy lập luận cực đoan, trắng đen “nếu mình không đứng đầu lớp thì mình chẳng là gì cả” hoặc bẩy diễn giải tiêu cực “sếp vừa đi qua mà không chào mình, chắc ông ấy ghét mình.” Những thiên kiến méo mó này khiến tam giác nhận thức tiêu cực được giữ vững và cũng cố, chúng kéo ta vào vòng xoáy đi xuống của trầm cảm nếu như ta không nắm được kỹ thuật phá vỡ trúng một cách có Ý thức.

Người mắc bẩy trong suy nghĩ hay bẩy trong nhận thức
Người mắc bẩy trên họ sàn lọc để chỉ ghi nhận những điều tiêu cực, Họ yêu cầu sự hoàn hảo, Họ khái quát hóa một cách cực đoan, Họ suy nghĩ ở hai cực trắng đen, Họ đọc tâm trí người khác, Họ ứng chuyện vào bản thân mà không có cơ sở, Họ trầm trọng hóa vấn đề, Họ lẫn lộn cảm xúc với thực tại.
Rối loạn lưỡng cực
Cũng giống như những tâm bệnh khác, nó không phải là một bệnh mà là một nhóm bệnh, gồm có rối loạn lưỡng cực loại I và loại II, rối loạn lưỡng cực chu kỳ (cyclothymic) và những rối loạn lưỡng cực khác (bao gồm những gì mang tính lưỡng cực nhưng không vừa với định nghĩa của ba bệnh kia).
Sự khác nhau của hai loại (I và II) là sự dữ dội của hưng cảm (mania).
Rối loạn lưỡng cực loại I = Hưng cảm nặng + Trầm cảm nặng hoặc nhẹ
Rối loạn lưỡng cực loại II = Hưng cảm nhẹ + Trầm cảm nặng
Ở đỉnh điểm của trạng thái hưng cảm người ta có thể thấy mình vô cùng ưu tú và tài giỏi. “Máu trở thành những dòng chảy của lửa,” Kay Jamison trong cuốn Đêm xuống nhanh, trích dẫn một bệnh nhân. “Những ý tưởng chảy như thác, những ý tưởng nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác. Suy nghĩ lỏng như nước, và đi kèm với cảm giác quyến rũ và loạn thần là mọi thứ trong vũ trụ đều được kết nối với nhau.” Người hưng cảm bùng nổ và không cần ngủ.
Nhìn chung, khả năng người có rối loạn lưỡng cực hồi phục hoàn toàn là khá thấp. Trung bình, người bệnh sống một phần năm cuộc đời mình trong các giai đoạn bệnh khác nhau, và chúng có thể phá hủy các quan hệ liên cá nhân, công việc, nghề nghiệp, chỗ đứng xã hội của họ trong bốn phần năm thời gian còn lại.
Do đó, trị liệu tâm lý đóng vai trò hỗ trợ quan trọng, cung cấp kiến thức để người bệnh tự theo dõi các dấu hiệu bệnh, giúp họ tạo ra và giữ một nhịp sinh hoạt lành mạnh, cải thiện các mối quan hệ liên cá nhân, và đi theo liệu pháp dược mà không bỏ cuộc, vốn là một vấn đề lớn. Một môi trường xung quanh có kiến thức về bệnh, cảm thông và hỗ trợ, như Dũng may mắn có được, là vô cùng quan trọng để không khiến các triệu chứng nặng lên và không làm tệ hại hơn chất lượng cuộc sống vốn đã gặp nhiều thách thức của người bệnh.
Ở khía cạnh cá nhân, mỗi người có thể làm gì để bảo vệ mình?
Chúng ta cần xây dựng những quan điểm khỏe mạnh về bản thân và thế giới. Cuộc sống hiện đại đẩy người ta vào cuộc đua và nhiều người tham gia cuộc đua bất chấp sức khỏe tinh thần của mình hoặc cho rằng nó là một nguồn lực vô hạn. Những quan điểm cho rằng con gái thì phải gầy, học giỏi thì mới có thể hạnh phúc, đẻ được con trai thì phụ nữ mới có giá trị, có chức vụ thì đàn ông mới được tôn trọng, là những yếu tố tổn thương có thể đẩy người ta vào tâm bệnh. Mặt khác, trong mỗi giai đoạn của cuộc đời, chúng ta cũng phải chuẩn bị cho các thách thức, các dịch chuyển trước mặt. Người sắp lập gia đình chuẩn bị cho các thách thức trong hôn nhân, sinh và nuôi dạy con, người trung niên chuẩn bị cho thách thức về hưu, người cao tuổi chuẩn bị tâm lý cho cái chết.

Chúng ta có thể làm gì để bảo vệ con cháu mình?
Trầm cảm đã xuất hiện ở thế hệ này thì dễ tái xuất hiện ở thế hệ sau, do đó sức khỏe tinh thần của cha mẹ là một trong những điều quan trọng nhất mà họ có thể trao cho con cái. Khuynh hướng trầm cảm cũng được tạo ra bởi một tuổi thơ bất lợi, và đây là trách nhiệm quan trọng thứ hai của cha mẹ. Một tuổi thơ thuận lợi hiển nhiên là một tuổi thơ không bị hắt hủi, ngược đãi hay xâm hại, nhưng nó không nhất thiết và cũng không thể là một tuổi thơ được bao bọc đến tận răng, chỉ toàn êm đềm mà không có sóng gió. Stress vượt ngưỡng phá hủy một cá nhân, nhưng stress ở mức vừa phải tôi luyện khả năng đề kháng của người đó. Một tuổi thơ thuận lợi là một tuổi thơ mà đứa trẻ được hỗ trợ để xây dựng năng lực cảm xúc và có gắn kết vững vàng với người chăm sóc mình để có thể thích nghi với nghịch cảnh khi nó tới. Đó chính là sự dẻo dai, bền bỉ tinh thần, khả năng phục hồi (resilience) mà các nhà tâm lý học hay nói tới.
Tổng kết lại, “vaccine” ngừa trầm cảm tốt nhất cho một cá nhân là sức khỏe tinh thần của cha mẹ họ, là một tuổi thơ được yêu thương, và khi họ lớn lên, là một cuộc sống điều độ, an toàn về vật chất, thư thái về tinh thần, trong một mạng lưới hỗ trợ và thương yêu của người thân và bạn bè xung quanh.
Tầm soát trầm cảm thông qua các nguồn lực sẵn có như bảng hỏi PHQ-9 và bảng hỏi GAD-7
Sau khi hoàn thành bài trắc nghiệm, hãy ghi lại điểm số của bạn để bạn có thể tham khảo.
Mỗi câu hỏi được chấm điểm từ 0 đến 3:
0: Không hề
1: Mức độ nhẹ
2: Mức độ trung bình
3: Mức độ nặng
Tổng điểm thang đánh giá trầm cảm PHQ-9 có thể dao động từ 0 đến 27. Cách giải thích thang điểm PHQ-9:
0-4: Bình thường
5-9: Trầm cảm nhẹ
10-14: Trầm cảm trung bình
15-19: Trầm cảm nặng
20-27: Trầm cảm rất nặng.
Điểm số tổng của thang đo GAD-7 được chia thành 4 mức độ:
0-4: Không có triệu chứng lo âu
5-9: Lo âu nhẹ, nhưng cần tìm hiểu nguyên nhân gây lo âu và xử lý trước khi có chuyển biến nặng hơn.
10-14: Lo âu vừa phải, nên tìm sự hỗ trợ của các chuyên gia.
15-21: Lo âu nghiêm trọng, cần điều trị gấp.
Ví dụ minh họa: Giả sử một người trả lời bài trắc nghiệm PHQ-9 như sau:
Câu hỏi 1: 2
Câu hỏi 2: 1
Câu hỏi 3: 0
Câu hỏi 4: 1
Câu hỏi 5: 2
Câu hỏi 6: 2
Câu hỏi 7: 2
Câu hỏi 8: 1
Câu hỏi 9: 0
Tổng điểm của người này là 11, tương ứng với mức độ trầm cảm trung bình.
Tham khảo 2 bảng hỏi online theo thông tin bên dưới:
Nếu bạn có quan tâm đến cuốn sách Đại Dương Đen hãy tìm đọc để có những kiến thức và trải nghiệm sâu sắc từ lời văn của tác giả Đặng Hoàng Giang. Đặc biệt trong lần tái bản năm 2024, tác giả có bổ sung “Chương 30 Làm gì khi người thân trầm cảm”, sau nhiều năm từ khi quyển sách được ra mắt ông có dịp tiếp xúc nhiều hơn với những gia đình có người thân trầm cảm.






