Cuốn sách lớn có ý nghĩa Chuyển đổi mô thức một cá nhân – đội nhóm và gia đình
Khang đang muốn nhắc tới quyển sách rất giản dị bởi tựa đề có tên 7 Thói Quen Để Thành Đạt (The 7 Habits of Highly Effective People) hay 7 Thói Quen Hiệu Quả | Stephen Covey mà chắc ai cũng từng nghe qua vài lần. Bởi vì, Quyển sách này đã phát hành lần đầu tiên từ rất lâu (1989). Và bởi sau 3 năm từ thời điểm được đón nhận quyển sách ở một phiên bản hết sức đặc biệt (Phiên bản kỷ niệm 30 năm của tác phẩm kinh điển vượt thời gian với những bổ sung hiện đại từ Sean Covey – con trai của Tiến sĩ người Mỹ Stephen R. Covey) hôm nay Khang mới có dịp tổng hợp lại những nội dung hay nhất của phiên bản đặc biệt này. Đại từ “Tôi” nếu có nhắc đến trong bài viết là chỉ tác giả Stephen R. Covey.

Tác phẩm này là một sản phẩm của tập thể. Tôi (Stephen R. Covey) bắt tay vào viết từ giữa thập niên 1970, khi tôi khảo cứu lại những áng văn về đề tài thành công trong hơn 200 năm qua cho chương trình tiến sĩ của mình. Tôi biết ơn vì đã tiếp nhận được nguồn cảm hứng và minh triết từ nhiều tư tưởng đi trước, cũng như những cội nguồn trí tuệ truyền đời.
Phần 1 MÔ THỨC & NGUYÊN LÝ
Việc nghiên cứu cho tôi cơ hội nhìn lại suốt 200 năm đối với các tác phẩm viết về thành công, và tôi để ý thấy có một mô thức tư duy nổi lên ở công trình nghiên cứu này. Bởi vì tôi đã trải qua những trăn trở đó, cũng như chứng kiến nó xảy ra trong cuộc sống và mối quan hệ của nhiều người mà tôi làm việc trong suốt đời mình, tôi bắt đầu càng lúc càng thấy rõ các tác phẩm viết về thành công trong vòng 50 năm gần đây đều rất hời hợt. Chúng toàn là về chuyện trau chuốt hình ảnh xã hội, các kỹ thuật và biện pháp xử lý chóng vánh – như chiếc băng dán vết thương hay liều aspirin để xoa dịu cơn đau hay đôi lúc cũng có thể tạm thời giải quyết được tình hình nhưng căn bệnh kinh niên thì vẫn âm thầm ủ dưới bề mặt và tái phát hết lần này đến khác.
Ngược lại, hầu hết các tác phẩm viết về thành công trong giai đoạn trước (150 năm đầu tiên) đều tập trung vào một thứ gọi là Đạo đức phẩm giá, xem đó là nền tảng của thành công – gồm tính chính trực, đức khiêm nhường, lòng trung thành, sự chừng mực, can đảm, công bằng, nhẫn nại, cần cù, giản dị, và Quy tắc vàng trong ứng xử. Quyển “Tự truyện của Benjamin Franklin” là minh họa tiêu biểu cho trường phái này. Quyền sách nói về một con người vĩ đại đã nỗ lực tích hợp các nguyên lý bất biến vào các thói quen gắn chặt với bản tính của người này.
Nhưng sau Thế chiến thứ nhất, tư tưởng chủ đạo về thành công đã chuyển từ Đạo đức phẩm giá sang Đạo đức tính cách.
Thành công chủ yếu được nhìn nhận dưới giác độ tính cách, hình ảnh xã hội, thái độ và hành vi, kỹ năng và chiêu thức để “lấy lòng” trong các giao tiếp giữa người với người. Quan điểm Đạo đức tính cách gồm hai xu hướng: một là những kỹ thuật giao tiếp xã hội giữa người với người, hai là thái độ sống tích cực (PMA -Positive Mental Attitude).
Từ mô thức (nếu nghĩ/ quan niệm/ não trạng) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó nguyên thuỷ là một thuật ngữ khoa học, và ngày nay được sử dụng rộng rãi với các nghĩa là “hình mẫu”, “lý thuyết”, “góc nhìn”, “giả định”, hoặc “khung tham chiếu”. Hiểu một cách tổng quát, mô thức là cách chúng ta nhìn nhận sự việc – không phải theo nghĩa chức năng thị giác, mà liên quan đến nhận thức, sự thấu hiểu và diễn giải sự thấu hiểu đó.
Mô thức của ta chính là khởi nguồn của thái độ và hành vi ta thể hiện.
Người ta càng trông cậy vào những giải pháp tạm bợ và tập trung vào những khó khăn bề nổi thì họ càng chôn sâu cái gốc rễ thật sự của mọi vấn đề. Cách ta nhìn nhận vấn đề mới chính là vấn đề.
💡So sánh “mô thức” (trong 7 Thói quen) và “mindset”
| Khía cạnh | Mô thức (paradigm trong 7 Habits) | Mindset |
|---|---|---|
| Phạm vi khái niệm | Rộng, cấu trúc — là mô hình nhận thức cơ bản, tập hợp giả định, nguyên tắc, cách diễn giải thực tại. | Hẹp hơn hoặc linh hoạt hơn — là tập hợp niềm tin/ thái độ cụ thể về bản thân, khả năng, thế giới. |
| Tính học thuật/triết học | Mang tính triết lý–paradigm (Covey dùng nhiều): thay đổi mô thức = thay đổi cách nhìn thế giới. | Gần với tâm lý nhận thức; thường dùng trong thực hành (ví dụ: fixed vs growth). |
| Tốc độ thay đổi | Thường chậm, sâu, cần trải nghiệm, bằng chứng và phản tư (paradigm shift). | Có thể nhanh hơn bằng can thiệp tâm lý (coaching, NLP, training), nhưng cũng có dạng cố hữu. |
| Ứng dụng | Dùng để phân tích và thay đổi cấu trúc hành vi hệ thống (ví dụ: từ “scarcity” → “abundance”) | Thường áp dụng cho thay đổi cá nhân (ví dụ: “tôi có thể học được” vs “tôi không thay đổi được”). |
| Ví dụ nổi bật | Một phòng ban tin rằng “quy trình hiện hành là tốt nhất, không cần thay đổi” — đó là một mô thức về giá trị và hệ thống. Đổi mô thức này cần thuyết phục bằng dữ liệu, thí điểm, và thay đổi cấu trúc. | Người trưởng phòng nghĩ “tôi không giỏi công nghệ” (fixed) → anh ta tránh các dự án số hóa. Thay đổi mindset có thể bắt đầu bằng khóa học ngắn, mentoring, và làm thử vài tasks thành công để tạo niềm tin mới. |
| Trong thực hành lãnh đạo & quản lý | Nếu mô thức hệ thống (ví dụ: “quan liêu là bản chất hoạt động”) không đổi, nhiều nỗ lực đổi mới sẽ bị phá hủy. Vì vậy phải thay mô thức từng bước (ví dụ: thí điểm → chứng minh → nhân rộng). | Nếu mindset cá nhân (ví dụ: sợ rủi ro) không đổi, người lãnh đạo sẽ cản trở tiến triển. Mindset có thể thay bằng coaching, feedback và trải nghiệm thành công. |
Làm sao để thay đổi – phương pháp đặc thù cho 02 khái niệm
Thay mô thức (paradigm shift)
- Thực nghiệm và chứng minh: thí điểm nhỏ, số liệu, minh chứng thực tế.
- Kể chuyện (storytelling): mô tả cách mô thức mới hoạt động trong bối cảnh cụ thể.
- Thay đổi cơ cấu & chính sách: điều chỉnh quy trình, KPI, trách nhiệm để khung nhận thức mới được “cố định hoá”.
- Lâu dài & hệ thống: cần lãnh đạo cấp cao cam kết, truyền thông liên tục.
Thay mindset (cá nhân / nhóm)
- Phản hồi và coaching cá nhân: feedback cụ thể, hành động nhỏ, mentoring.
- Tập trải nghiệm thành công: “small wins” để thay đổi niềm tin.
- Tập thói quen phản tư: journaling, self-talk, reframing.
- Đào tạo tập trung: workshop, role-play, learning-by-doing.
Mô thức lấy nguyên lý làm trọng tâm
Những nguyên lý mà tôi đang đề cập tuyệt nhiên không mang tính bí truyền, huyền nhiệm hay “tôn giáo”. Trong sách này không có một nguyên lý nào chỉ đúng với một đức tin hay tôn giáo riêng biệt, kể cả đức tin và tôn giáo của tôi. Trái lại, những nguyên lý này là một phần của tất cả tôn giáo lớn, cũng như nền triết học xã hội và hệ thống đạo đức nào đã trường tồn theo thời gian. Mỗi nguyên lý đều có tính hiển nhiên, và mỗi cá nhân dễ dàng chứng thực điều này, như thể những nguyên lý hay quy luật tự nhiên này là một phần của điều kiện con người, của nhận thức con người, của lương tâm con người. Chúng như tồn tại trong mỗi con người và luôn luôn ở đó dù điều kiện xã hội như thế nào, hay thậm chí dù có bị vùi dập và cô lập như thế nào đi nữa.
Chẳng hạn như trên nguyên lý về tính công bằng, người ta xây dụng nên khải niệm bình đẳng và công lý. Trẻ con dường như sở hữu một trì giác bản năng về tính công bằng cho dù điều kiện trải nghiệm của chúng đổi ngược nhau. Cùng như có rất nhiều cách để Lý giải hay đạt được công bằng, nhưng nhận thức về nó hầu như đều tương đồng ở khắp mọi nơi.
Với các nguyên lý về tính liêm chính và trung thực cùng vậy. Chúng hình thành nền tảng của niềm tin, nhân tổ thiết yếu cho quả trình hợp tác và sự trường thành dài hạn của mỗi cá nhân và tập thể.
Có một nguyên lý khác là phẩm hạnh của con người. Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỳ đã nồi lên nguyên lý này. “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiền nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yểu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc.”
Một nguyên lý khác là tính phụng sự, hay ý muốn cổng hiển. Hướng đến chất lượng hoặc sự ưu tủ cùng là một nguyên lý.
Cùng có nguyên lý về tiềm năng, với nội dung là chúng ta chỉ mới sử dụng một phần nhỏ khả năng của mình, vì thể, luôn có thể trưởng thành, phát triển, và giải phóng tiềm năng cùng như rèn giùa tài năng của bản thân. Liên hệ mật thiết đến nguyên lý về tiềm năng là nguyên lý về trưởng thành, tức quy trình giải phóng và phát triển tài năng của mỗi người, và nguyên lý này lại liên quan đến nhiều nguyên lý khác như tỉnh nhần nại, sự ân cần chăm sóc, và sự khích lệ động viên.

Tổng quan về 7 Thói quen
Thói quen cũng có sức mạnh khổng lồ như lực hút của trái đất, sức mạnh này to lớn hơn những gì con người có thể tưởng tượng ra nổi. Do đó, ta cần một sức mạnh tinh thần và một số thay đổi nhỏ để có thể phá vỡ được những thói quen bám rễ sâu trong mỗi chúng ta, chẳng hạn như tính trì hoãn, nóng vội, hay chê bai, ích kỷ mà đi ngược với những nguyên lý cơ bản về tính hiệu quả của con người. Cần rất nhiều nỗ lực ở giai đoạn “cất cánh”, nhưng cũng giống như khi phi thuyền đã thắng được lực hút trái đất, ngay sau đó, ta sẽ đến được phương trời tự do mới.
Cũng như bất kỳ một sức mạnh tự nhiên nào, lực hút trái đất có thể giúp sức hoặc có thể hạn chế ta. Nó vừa gắn kết thế giới này lại với nhau, giữ cho hành tinh quay quanh quỹ đạo, và xác lập trật tự cho vũ trụ. Nhưng lực hút (hay lực kéo) này, cũng như sức ỳ của các thói quen có thể ngăn cản ta đến những nơi cần đến. Đó là một nguồn năng lượng có sức mạnh to lớn mà nếu được sử dụng hiệu quả, ta có thể tạo ra một trật tự và sự kết dính cần thiết để đạt được hiệu quả trong mọi khía cạnh của cuộc sống.
Định nghĩa thói quen:
Ta hãy xem thói quen là tổng hoà của ba yếu tố: kiến thức; kỹ năng và khát khao. Kiến thức chính là mô thức về lý thuyết, tức những gì cần làm, và vì sao lại cần làm những việc ấy. Kỹ năng là cách thức để làm. Còn khát khao chính là động lực, là mong muốn làm việc đó. Để biến điều gì đó thành thói quen, ta phải có cả ba yếu tố trên.

Lối tư duy độc lập không phù hợp với thực tại có tính tương thuộc của thế giới này. Những người độc lập nào không đủ trưởng thành để tư duy và hành động một cách tương thuộc có thể là những cá nhân được việc chứ không phải nhà lãnh đạo hay người làm việc nhóm hiệu quả. Họ không có được mô thức về sự tương thuộc cần thiết để giúp họ thành công trong hôn nhân, gia đình và công việc.
Bản chất của cuộc sống này là tính tương thuộc rất cao. Nếu muốn đạt được hiệu quả tối ưu mà chỉ dừng lại ở cấp độ độc lập thôi thì cũng giống như cố chơi quần vợt bằng gây đánh gôn vậy, công cụ không phù hợp với thực tại.
Sự tương thuộc là một khái niệm cấp tiến và trưởng thành hơn rất nhiều. Nếu tôi thấy được mình tương thuộc về mặt thể chất thì tôi vẫn có thể tự chủ, có năng lực, nhưng vẫn nhận ra rằng tôi và bạn cùng hợp tác để đạt được thành quả lớn lao hơn cả những gì tốt đẹp nhất mà cá nhân tôi có thể đạt được khi làm một mình.
Định nghĩa về tính hiệu quả
Tính hiệu quả đích thực nằm ở sự cân bằng của hai yếu tố: Sản phẩm và Khả năng sản xuất. Sự cân bằng P/PC. P (Production) chính là kết quả mong đợi, còn PC (Production Capability) chính là khả năng sản xuất, tức năng lực hoặc nguồn lực mà tạo ra kết quả mong đợi.
Bạn không thể đối xử với con người theo cách chỉ thuần về hiệu suất. Bạn áp dụng hiệu suất khi nói về đồ vật, nhưng với con người, ta phải bàn về tính hiệu quả.
Phân biệt giữa các khái niệm “Hiệu quả” (Effectiveness), “Hiệu suất” (Efficiency), và “Năng suất” (Productivity)
| Tiêu chí | Hiệu quả (Effectiveness) | Hiệu suất (Efficiency) | Năng suất (Productivity) |
|---|---|---|---|
| Định nghĩa/Bản chất | Thể hiện việc đạt được các mục tiêu của tổ chức. Hiệu quả tập trung vào làm những việc đúng đắn (làm việc gì). | Bao hàm việc đạt được các mục tiêu bằng cách sử dụng nguồn lực một cách khôn ngoan và tiết kiệm chi phí. Hiệu suất cao có nghĩa là sử dụng ít nguồn lực nhất để hoàn thành công việc. | Số lượng công việc mà nhân viên đã làm trong một khoảng thời gian cụ thể, bất kể chất lượng như thế nào. Năng suất hầu như luôn luôn mang tính định lượng. |
| Dấu hiệu nhận biết | Đạt được các Mục tiêu (Objectives). Hoàn thành các kỳ vọng của tổ chức, được đo lường bằng mức độ thành công dựa trên tiêu chí đã thỏa thuận trước (ví dụ: KPI, mục tiêu). | Tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực (lao động, tài chính, vật chất). Đạt được mục tiêu với chi phí thấp nhất. | Lượng công việc hoàn thành trong một khoảng thời gian cụ thể. |
| Cách đo lường | Đo lường bằng mức độ hoàn thành Mục tiêu/KPI/Mục tiêu then chốt (Key Results) đã thỏa thuận trước. | Đo lường bằng tỷ lệ đầu vào (nguồn lực) so với đầu ra (kết quả đạt được). Ví dụ: Phân tích chi phí sản xuất, chi phí nhân công, hoặc sử dụng hệ số hoàn vốn. | Đo lường chủ yếu bằng số lượng: số giờ làm việc, số tiền đầu tư. Luôn mang tính định lượng. |
| Gợi ý chỉ số để theo dõi | Mục tiêu (Objectives): Thể hiện điều muốn làm (What). Kết quả then chốt (Key Results): Thể hiện mức độ đạt được mục tiêu (How). Các chỉ số KPI (Key Performance Indicators). | Chi phí vận hành/đơn vị sản phẩm. Tỷ lệ sử dụng nguồn lực (Efficiency Ratio). Thời gian chu kỳ sản xuất (để giảm thời gian và chi phí). | Số lượng sản phẩm/giờ công. Số lượng khách hàng phục vụ/giờ công. Tốc độ thực hiện nhiệm vụ (Task throughput). |
| Ví dụ minh họa | Một nhân viên hoàn thành mục tiêu “Phát hành chức năng thông báo đẩy ở nhiều quốc gia khác nhau”. Hoặc đạt được kết quả then chốt: “Tăng 20% người truy cập quay lại trang web trong vòng một tuần”. | Công ty làm phim hoạt hình cắt bỏ chi tiết nhỏ không cần thiết để giảm chi phí render trên máy tính. Hoặc, công ty GE giữ con người làm việc lâu hơn tại bộ phận kinh doanh để họ thông hiểu sâu hơn về sản phẩm, dẫn đến sử dụng nguồn lực có hiệu suất hơn. | Số lượng bưu kiện được vận chuyển bởi UPS trong một giờ. Hoặc, số giờ mà các nhóm sản xuất dành ra để làm việc. |
| Mục tiêu trong quản trị | Đạt được mục tiêu. Ví dụ: Một công ty ghi âm cần có khả năng tuyển dụng nghệ sĩ mới. | Sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm chi phí. Ví dụ: Công ty ghi âm cắt giảm chi phí hoạt động và gia tăng lợi nhuận. | Năng suất cao đạt được thông qua sự cân bằng giữa hiệu suất và hiệu quả thực hiện. |
Phần 2: Thành công cá nhân
Thói quen 1 Sống kiểu kiến tạo
Theo quan điểm của học viên quản lý PACE thì có 4 thái độ sống mà chúng ta có quyền tự do lựa chọn cho mình trong cuộc sống hàng ngày và trong cả cuộc đời: Thụ động (Passive), Ứng phó (Reactive), Chủ động (Active), Kiến tạo (Proactive)
Khả năng “Tự nhận thức” (Mô thức bản ngã) khả năng suy nghĩ về quá trình tư duy của chính mình
Trong lúc đọc quyển sách này, bạn hãy cố gắng đứng tách mình ra và giữ một khoảng cách với bản thân. Bạn thử phóng ý thức của mình ra một góc phòng, rồi nhìn trở lại mình dưới con mắt của sự hiểu biết. Bạn có thể nhìn được bản thân ở góc độ của người thứ ba chứ?
Thử thêm một việc nữa nhé. Đó là bạn hãy nghĩ về tâm trạng của mình lúc này. Bạn nhận diện được nó? Bạn đang cảm thấy như thế nào? Nếu mô tả lại trạng thái tinh thần của bạn ngay lúc này, thì bạn sẽ mô tả ra sao?
Bây giờ bạn hãy dành một phút nghĩ về tâm trí của mình. Nó có nhanh nhạy và tỉnh táo không? Bạn có đang thấy mình bị giằng co giữa việc làm theo bài tập này với việc tự hỏi ý nghĩa của nó không? Khả năng thực hiện điều vừa diễn ra chỉ đặc biệt có ở con người. Các loài động vật khác không thể làm được như thế. Chúng ta gọi đó là “tự nhận thức”, hay khả năng suy nghĩ về quá trình tư duy của chính mình. Đó là lý do tại sao con người là loài thống trị trên thế giới, và tạo ra những bước tiến vượt trội từ đời này sang đời khác.
Trong những giây phút cùng cực, Frankl đã sử dụng khả năng thiên bẩm của mình là Sự tự nhận thức để phát hiện ra một nguyên lý căn bản về bản chất con người: Nằm giữa yếu tố kích thích và cách con người phản ứng với yếu tố đó là quyền tự do lựa chọn của họ.
Con người có quyền tự do lựa chọn ấy là nhờ những năng lực thiên phú – những khả năng chỉ con người mới có. Bên cạnh khả năng tự nhận thức, chúng ta có trí tưởng tượng – khả năng đưa tâm trí vượt ra khỏi thực tại. Chúng ta còn có lương tâm – là nhận thức sâu thẳm bên trong về những điều đúng – sai, về các nguyên lý chi phối hành vi của chúng ta, và việc liệu suy nghĩ và hành động của chúng ta có hài hòa với các nguyên lý đó không. Và cuối cùng, chúng ta có ý chí độc lập – khả năng hành động dựa theo cơ sở của sự tự nhận thức, tự do mà không bị chi phối bởi các yếu tố khác.
Thuật ngữ “Sống kiểu kiến tạo” khá phổ biến trong các tài liệu về quản trị, nhưng không dễ tìm thấy trong hầu hết các từ điển. Nó không chỉ đơn thuần là “khởi xướng một việc gì”. Nó mang ý nghĩa rằng trong tư cách con người, chúng ta lãnh nhận trách nhiệm kiến tạo cuộc đời mình. Hành vi của chúng ta như thế nào là do chúng ta quyết định, chứ không phải do hoàn cảnh sống quyết định. Chúng ta biết đặt các giá trị sống của bản thân lên trên cảm xúc. Chúng ta chủ động và nhận lãnh trách nhiệm làm cho mọi việc diễn ra.
Hãy nhìn vào từ “responsibility” (trách nhiệm), từ này được hình thành từ cụm “response ability” (khả năng phản ứng), hay nói rõ hơn là khả năng lựa chọn cách phản ứng của mình trước hoàn cảnh. Chỉ có những người có tinh thần kiến tạo mới nhận ra trách nhiệm này. Họ không đổ lỗi cho hoàn cảnh, điều kiện sống hay những yếu tố tác động đến hành vi của họ. Hành vi của họ chính là sản phẩm của những lựa chọn có ý thức dựa trên giá trị, hơn là sản phẩm của điều kiện sống dựa trên cảm xúc.

Trở thành “Người kiến tạo”
Tất cả chúng ta đều phải trải qua những giai đoạn khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, chính từ nghịch cảnh mà chúng ta có thể thực hành Thói quen 1, Sống kiểu kiến tạo, nhiều nhất. Thói quen này được thể hiện ở việc chúng ta có thể đặt quá khứ lại phía sau, học hỏi từ nó và hướng về tương lai. Bản chất của việc “sống kiểu kiến tạo” là trở thành “Người kiến tạo”, một người dừng lại những khuynh hướng, thói quen và khuôn mẫu tiêu cực từ quá khứ của thế hệ mình (như bạo hành, nghiện ngập hay bỏ rơi), và truyền đi những khuynh hướng, thói quen và khuôn mẫu tích cực hơn đến những người xung quanh. Chúng ta có thể dừng lại những khuôn mẫu tiêu cực này bằng cách sử dụng 4 khả năng thiên phú của con người: sự tự nhận thức (khả năng đứng tách biệt và quan sát suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của chính mình), lương tri (khả năng minh định giữa đúng và sai), trí tưởng tượng (khả năng hình dung những viễn cảnh mới), và ý chí độc lập (khả năng lựa chọn cách phản ứng của mình với hoàn cảnh).
Sự tự nhận thức là nền tảng của ba khả năng thiên phú còn lại. Vì chỉ khi bạn có thể đứng tách biệt và quan sát những suy nghĩ, cảm xúc bên trong, thì bạn mới có thể kết nối với lương tri, sử dụng trí tưởng tượng và đưa ra quyết định hiệu quả. Bạn không còn bị kiểm soát bởi những khuôn mẫu thói quen vô thức được hình thành từ quá khứ, như trường hợp của bạn tôi.
Thói quen 2 BẮT ĐẦU BẰNG ĐÍCH ĐẾN
Nếu bạn suy nghĩ cẩn trọng về những gì bạn muốn người khác nói về mình trong lễ tang của bạn ở tương lai, bạn sẽ tìm được định nghĩa về thành công của riêng bạn.
“Bắt đầu bằng đích đến” là thói quen dựa trên nguyên lý rằng tất cả mọi thứ đều được sáng tạo hai lần. Tư duy là sự sáng tạo đầu tiên, và hành động là sự sáng tạo thứ hai.
Hãy suy ngẫm những lời của Joseph Addison:
Khi ngước nhìn lăng mộ của những người vĩ đại, mọi cảm xúc ghen tỵ đều tan biến trong tôi; khi đọc những dòng chữ trên mộ bia của những con người đẹp đẽ, mọi ham mê thường tình cũng không còn nữa; khi tôi chứng kiến nỗi đau của những người làm cha mẹ trước bia mộ con họ, tim tôi tan chảy với lòng trắc ẩn; và khi tôi đứng trước mộ bia của chính những người làm cha mẹ, tôi nghĩ phải chăng hành động tiếc thương cho họ là quá hãnh tiến, vì không sớm thì muộn ta cũng nối gót theo họ: khi tôi thấy những vị vua nằm xuống bên cạnh những người muốn hạ bệ họ, tôi nghĩ về những mưu kế toan tính tranh giành luôn hiện hữu, hoặc khi nhìn cách những nhóm tôn giáo đã chia tách thế giới này vì tranh cãi và bất đồng, tôi nghĩ về nỗi thống khổ và kinh ngạc trước nạn cạnh tranh, bè phái và tranh cãi vốn rất ti tiện của con người. Khi tôi đọc các ngày tháng ghi trên bia mộ, của những người vừa mất ngày hôm qua, và cả của những người nằm xuống cách đây hơn sáu thế kỷ, tôi nghĩ về một ngày trọng đại mà tất cả chúng ta cùng nhau trở về một điểm xuất phát, cùng tái sinh.
Tuyên ngôn sứ mệnh cá nhân
Con người không thể chịu đựng sự thay đổi nếu bản thân họ không có một cái lỗi bất biến bên trong. Chìa khóa để mang lại khả năng thay đổi chính là cảm nhận bất biến về mình là ai, là gì, và sống với giá trị gì.
Bản tuyên ngôn sứ mệnh không phải là thứ bạn có thể hoàn thành trong chốc lát. Nó đòi hỏi quá trình quan sát nội tâm sâu sắc, phân tích kỹ lưỡng, thường xuyên viết đi viết lại, hoàn thiện nhiều lần. Có thể nó tốn nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng trước khi bạn toại nguyện, cảm thấy nó là sự thể hiện hoàn chỉnh và súc tích nhất về định hướng cuộc đời và những giá trị sâu thẳm trong bạn. Thậm chí ngay cả như vậy, mỗi năm bạn vẫn nên xem lại để bổ sung hay điều chỉnh bởi có nhiều phát sinh trong cuộc sống hoặc hoàn cảnh thay đổi.
Một lời tuyên ngôn khẳng định đúng cần có năm yếu tố: mang tính cá nhân, tích cực, ở thì hiện tại, có thể hình dung, và đầy xúc cảm khi đọc vào. Ví dụ tôi có thể viết như sau: “Trong tư cách một người cha, không gì mãn nguyện và hạnh phúc (xúc cảm) bằng việc nếu tôi (mang tính cá nhân) hành xử (thì hiện tại) trong sự khôn ngoan, tình yêu thương, và tính tự chủ (tích cực) khi con tôi làm sai một điều gì đó.”
Cách lập ra bản sứ mệnh cá nhân
Cách tốt nhất để “Bắt đầu bằng đích đến” là lập ra bản sứ mệnh cá nhân. Sau khi đọc Thói quen 2, nhiều người thấy hào hứng làm việc này, nhưng vì bận rộn nên cứ mãi trì hoãn. Tuy nhiên, đó lại là việc quan trọng nhất, vì sứ mệnh cá nhân giúp định hướng cuộc đời và dẫn dắt mọi quyết định hàng ngày của bạn. Mấu chốt ở đây là đừng suy nghĩ nhiều quá và cố lập ra một phiên bản “hoàn hảo” ngay từ đầu. Thay vào đó, hãy bắt đầu viết và trau chuốt qua thời gian.
Sau đây là một vài ý tưởng để bạn làm điều đó:
• Viết tự do. Ngồi xuống, bấm thời gian 15 phút và bắt đầu viết. Viết ra mọi ý nghĩ về việc bạn làm gì giỏi nhất (sự tự nhận thức), bạn cảm thấy mình cần làm gì (lương tri), và bạn sẽ làm gì nếu có nguồn lực vô hạn (trí tưởng tượng). Điều quan trọng là viết liên tục cho đến khi hết thời gian. Sau đó, bạn hãy đọc lại và chỉnh sửa để tạo ra phiên bản sứ mệnh cá nhân đầu tiên của mình.
• Một ngày tĩnh lặng. Dành ra một ngày để đến một nơi nào đó yên tĩnh và mang lại cảm hứng cho bạn như công viên, đồi núi hoặc bãi biển. Ở đó, bạn hãy nghĩ về những điều quan trọng nhất đối với bản thân. Để có ý tưởng, bạn có thể viết ra câu trả lời cho các câu hỏi bên dưới.
Sau đó, bạn hãy tổng hợp và trau chuốt bản sứ mệnh cá nhân của mình.
- Nghĩ về một người có ảnh hưởng tích cực đối với cuộc đời bạn. Người đó có những phẩm chất gì mà bạn cũng muốn rèn luyện ở bản thân?
- Mô tả một thời điểm mà bạn được truyền rất nhiều cảm hứng
- Nếu có thể dành cả một ngày trong thư viện để nghiên cứu bất kỳ điều gì mình muốn, thì bạn sẽ nghiên cứu điều gì?
- 10 việc mà bạn đặc biệt thích làm là gì?
- Nghĩ về một thứ đại diện cho bạn: một con vật, một bài hát, một chiếc xe, một địa điểm, v.v. Tại sao bạn chọn thứ đó?
• Hoàn thiện. Bạn có thể thêm vào một câu trích dẫn, một đoạn nhạc hoặc đoạn thơ mà mình yêu thích. Khi tôi hướng dẫn các bạn tuổi teen lập ra sứ mệnh cá nhân, tôi thấy chúng thường không thích viết ra câu chữ dông dài, mà thích tô vẽ, cắt dán hình ảnh. Bạn cũng có thể làm như vậy.
• Sử dụng mẫu có sẵn. Nếu bạn cần thêm hướng dẫn, hãy truy cập trang https://msb.franklincovey.com. Nó sẽ chỉ bạn từng bước cách thực hiện. Chỉ cần trả lời một vài câu hỏi, nhấp “in”, và bạn sẽ có một bản sứ mệnh cá nhân trong tay mình.
Thói quen 3 ƯU TIÊN ĐIỀU QUAN TRỌNG
E. M. Gray nhận xét: “Những người thành công có thói quen làm những điều người thất bại không thích làm. Bản thân họ tất nhiên cũng không thích, nhưng sự không thích này phải được khuất phục trước ý chí đạt được mục đích của họ”.
Để nói “Không” cần điều kiện gì? Bạn cần một quyết tâm “Có” mạnh mẽ bên trong với những ưu tiên của bạn để có thể nói “Không” với những thứ khác. Hãy nhớ rằng, khi ôm đồm bạn sẽ chẳng thể làm tốt nhất điều gì cả. Trong rất nhiều trường hợp, kẻ thù của “Tốt nhất” chính là “Tốt”.
Ta không sắp xếp ưu tiên những gì nằm trên lịch, mà hãy lên lịch thực hiện những ưu tiên của ta.
| MỨC ĐỘ | KHẨN CẤP | KHÔNG KHẨN CẤP |
|---|---|---|
| QUAN TRỌNG | I. NGƯỜI TRÌ HOÃN / CÁC HOẠT ĐỘNG – Khủng hoảng xảy ra – Các vấn đề cấp bách- Các dự án đến thời hạn – Những cuộc họp khẩn – Công việc sắp đến hạn – Những vấn đề cấp bách – Những sự việc phát sinh | II. NGƯỜI HIỆU QUẢ / CÁC HOẠT ĐỘNG – Những hoạt động mang tính dự phòng, hay nhằm nuôi dưỡng PC (Personal Capacity) – Xây dựng các mối quan hệ – Nhận diện những cơ hội mới – Lập kế hoạch, thư giãn cân bằng – Công việc quan trọng nhưng chưa đến hạn – Những mục tiêu mang lại tác động lớn – Tư duy sáng tạo – Lập kế hoạch và phòng ngừa – Xây dựng mối quan hệ – Học tập và rèn luyện bản thân |
| KHÔNG QUAN TRỌNG | III. NGƯỜI VẮNG LỜI / CÁC HOẠT ĐỘNG – Những việc chen ngang, các cuộc điện thoại – Một số thư từ, báo cáo – Một số cuộc họp đột xuất – Những vấn đề bức xúc – Các hoạt động bao đồng – Những báo cáo không cần thiết – Những cuộc họp không liên quan – Những vấn đề nhỏ nhặt của người khác – Những email, cuộc gọi, công việc ít giá trị | IV. NGƯỜI LƯỜI BIẾNG / CÁC HOẠT ĐỘNG – Các việc không tên nhưng mất thời gian – Một số thư từ – Điện thoại tán gẫu – Những việc lãng phí thời gian – Những hoạt động giải trí vô bổ – Những việc làm vô bổ – Những hoạt động tránh né – Nghỉ ngơi, xem tivi, chơi game, lướt web quá mức – Nói chuyện tầm phào |
Phần 3 THÀNH CÔNG TẬP THỂ
Thói quen 4 TƯ DUY CÙNG THẮNG
| Cùng thắng | Thua – Thua |
| Thắng – Thua | Chỉ cần mình thắng |
| Thua – Thắng | Cùng thắng hoặc Không giao kèo |
“Cùng thắng” là mô thức dựa trên niềm ing mọi thứ luôn có đủ cho tất cả mọi người, và thành công c gười này không hề đe dọa thành công của người khác.
“Cùng thắng” chính là niềm tin về Giải pháp thứ Ba. Khôi hải là nếu không theo cách của bạn thì phải theo cách của tôi, n à có một cách thứ ba còn tốt hơn, còn cao hơn nữa.

Thói quen 5 THẤU HIỂU RỒI ĐƯỢC HIỂU
Thói quen 6 CÙNG TẠO CÁCH MỚI
Cái tổng thể luôn vĩ đại hơn tổng của từng thành tố. Hay một cộng một sẽ bằng ba, hoặc nhiều hơn.
“Cùng tạo cách mới” có nghĩa là 1 + 1 phải bằng được 8, 16, hoặc thậm chí là 1600. Với niềm tin và sự hợp lực cao độ, giải pháp được tạo ra tốt hơn nhiều so với những giải pháp được đề xuất ban đầu, và tất cả mọi người đều thừa nhận việc này. Hơn nữa, họ thật sự hài lòng về sự kết hợp sáng tạo của tất cả các bên. Họ hình thành nên một văn hóa mà tự thân nó là sự hài lòng của tất cả. Cho dù thời hạn có ngắn ngủi, nhưng trong văn hóa ấy có sự Cân bằng P/PC.
“Cùng tạo cách mới” bằng cách nào?
“Giải pháp thứ ba” không tự nhiên mà có, mà bạn phải đi đến đó. Nhìn chung, quá trình này bao gồm 5 bước đơn giản sau:
- Xác định vấn đề/ cơ hội là gì
- Cách của bạn (lắng nghe đồng cảm góc nhìn của người kia)
- Cách của tôi (chia sẻ chân thành quan điểm của mình)
- Động não (tạo ra các lựa chọn/ ý tưởng mới)
- Cách của chúng ta (Tìm ra giải pháp tối ưu)
Có một số tình huống mà không thể nào đạt được việc “Cùng tạo cách mới”, thế nhưng, trong chính những tình huống đó, sự chân thành nỗ lực đạt được kết quả cũng là một giải pháp thỏa hiệp, nhưng ở cấp độ cao.
Howard Gardner, giáo sư tại Đại học Harvard, đề xuất có 9 loại hình thông minh, và cho rằng mỗi cá nhân đều sở hữu ít nhất một trong số này:
- Thông minh không gian: Khả năng tự định vị trong không gian, lớn và nhỏ.
- Thông minh ngôn ngữ: Khả năng làm việc với từ vựng, nói và viết.
- Thông minh logic & toán học: Khả năng làm việc với con số, suy nghĩ logic và lập luận.
- Thông minh vận động: Khả năng sử dụng cơ thể, phản xạ, khéo tay.
- Thông minh âm nhạc: Nhạy cảm với âm thanh, âm sắc, nhịp điệu, cao độ.
- Thông minh xã hội: Nhạy cảm với tâm trạng của người khác; khả năng xây dựng mối quan hệ, hợp tác, làm việc nhóm.
- Thông minh nội tâm: Khả năng tự nhìn nhận, thấu hiểu cảm xúc của bản thân.
- Thông minh thiên nhiên: Khả năng phân biệt giữa các loài động vật, cây cối và những thứ khác trong thế giới tự nhiên.
- Thông minh triết học: Khuynh hướng đặt những câu hỏi lớn về cuộc sống và tìm kiếm câu trả lời.
Phần 4 TỰ RÈN MỚI
Thói quen 7 RÈN MỚI BẢN THÂN
Việc rèn mới bản thân trong ba chiều kích đầu tiên – thể chất, tinh thần và trí tuệ – là một quá trình thực hành mà tôi gọi là “Thành công cá nhân mỗi ngày”. Tôi khuyến cáo bạn hãy dành ra một giờ để thực hành mỗi ngày mà thôi – chỉ cần một giờ mỗi ngày cho đến hết cuộc đời.
Nếu xét trên giá trị và thành quả mang lại, thì không có bất kỳ hoạt động nào xứng đáng với một giờ quý báu của bạn hơn quá trình thực hiện “Thành công cá nhân mỗi ngày”. Quá trình này sẽ ảnh hưởng đến mọi quyết định, và mối quan hệ của bạn trong cuộc sống. Quá trình này thật sự giúp bạn gia tăng chất lượng và tính hiệu quả của từng khoảnh khắc còn lại của bạn trong ngày, nó thậm chí còn quyết định độ sâu và sự bình an của giấc ngủ. Quá trình này nâng cao sức mạnh thể chất, tinh thần, và trí tuệ của bạn một cách lâu dài và bền vững, nhằm giúp bạn có khả năng đương đầu với những thử thách lớn hơn trong đời.
Học giả đại tài Goethe từng nói: “Đối đãi với một người qua hiện trạng của anh ta, anh ta sẽ ở mãi hiện trạng ấy. Đối đãi với một người qua tiềm năng của anh ta, anh ta sẽ trở thành người mà anh ta có thể trở thành và nên trở thành.”
Mức độ an toàn về tài chính không phụ thuộc vào công việc của bạn, nó được quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị của bạn – khả năng tư duy, học hỏi, sáng tạo và thích nghi. Sự độc lập thực sự về tài chính không phải nằm ở của cải, mà ở khả năng tạo ra của cải. Sự tự do tài chính đến từ bên trong.
Thành công cá nhân mỗi ngày – hãy dành tối thiểu một giờ mỗi ngày để làm mới thể chất, tinh thần và trí tuệ – đó là chìa khóa để phát triển cả “7 Thói quen”, và điều này hoàn toàn nằm trong Phạm vi ảnh hưởng của bạn. Hoạt động này thuộc Góc phần tư thứ hai (II), thế nên, hãy tập trung thời gian cần thiết để tích hợp những thói quen này vào trong cuộc sống của bạn, và hãy lấy các nguyên lý làm trọng tâm cho cuộc sống.

Emerson: “Nếu kiên trì, việc sẽ dễ dàng hơn, không phải vì bản chất của việc đó thay đổi, mà vì năng lực của ta đã được nâng cao.”
Bằng việc đặt cuộc đời ta xoay quanh những nguyên lý đúng đắn và tạo ra một trọng tâm cân bằng giữa hành động và nâng cao khả năng hành động, ta có sức mạnh để tạo nên cuộc đời sáng tạo, hiệu quả, hữu ích và thanh bình cho chính ta, và cho cả hậu duệ của ta nữa.
Tổng hợp 21 Thực hành Hiệu quả

Thành công cá nhân
Thói quen 1
1. Tạm ngừng và phản ứng dựa trên các nguyên lý và kết quả mong muốn. 2. Sử dụng “ngôn ngữ chủ động”. 3. Tập trung vào “Phạm vi ảnh hưởng”. 4. Trở thành “Người kiến tạo”.
Thói quen 2
5. Xác định kết quả trước khi hành động. 6. Xây dựng và sống với “Bản sứ mệnh cá nhân”.
Thói quen 3
7. Tập trung vào những việc có ưu tiên cao nhất. 8. Loại bỏ điều không quan trọng. 9. Lập kế hoạch mỗi tuần. 10. Suy xét kỹ mỗi khi đưa ra lựa chọn.
Thành công tập thể
11. Xây dựng “Tài khoản tình cảm” với người khác
Thói quen 4
12. Nuôi dưỡng “Tâm thức dồi dào”. 13. Cân bằng giữa lòng can đảm và sự cân nhắc. 14. Cân nhắc về thắng lợi của người khác và của chính mình. 15. Tạo ra “Thỏa thuận cùng thắng”.
Thói quen 5
16. Thực hành “Lắng nghe đồng cảm” 17. Chia sẻ góc nhìn của mình một cách chân thành và tôn trọng.
Thói quen 6
18. Xem trọng sự khác biệt. 19. Tìm kiếm “Giải pháp thứ ba”.
Thói quen 7
20. Đạt được “Thành công cá nhân mỗi ngày”. 21. Cân bằng giữa “kết quả” và “khả năng tạo ra kết quả”.
3 điều quan trọng mà tác giả luôn tin tưởng một cách sâu sắc:
Thứ nhất là cách tiếp cận “Từ trong ra ngoài”. Khi bạn phải đối mặt với một thử thách bên ngoài, hãy bắt đầu từ bên trong. “Thành công cá nhân” phải đi trước “Thành công tập thể”. không thể đảo ngược quá trình này. Mọi sự thay đổi bắt đầu từ chính bạn. Bất kỳ khi nào bạn nghĩ rằng vấn đề nằm ở ngoài kia, thì chính suy nghĩ đó là vấn đề.
Thứ hai, mô thức là nền tảng. Chúng ta dành quá nhiều thời gian vào việc thay đổi thái độ và hành vi, và quá ít vào việc thay đổi mô thức, tức cách nhìn của ta về thế giới. Điều này cũng giống như việc chỉ tập trung vào cành lá mà quên đi gốc rễ. Để tạo ra sự thay đổi thực sự, bạn phải làm việc ở cấp độ nền tảng này trước tiên.
Thứ ba, nguyên lý mới là thứ chi phối toàn bộ cuộc sống, chứ không phải chúng ta. Nếu những mô thức và thói quen của chúng ta càng thuận theo các nguyên lý của tính hiệu quả như sự trách nhiệm, sự hợp lực, sự rèn mới…, thì chúng ta sẽ càng hạnh phúc và thành công về lâu dài. Không có lối đi tắt cho việc đó.
Về 7 Thói quen kém hiệu quả
(Viết bởi Sean Covey)
Thói quen 1: Sống kiểu phản ứng
Bạn đổ lỗi mọi vấn đề của mình cho người khác hoặc hoàn cảnh, như đổ lỗi cho sếp, bố mẹ, vợ chồng, hay cho chính phủ, nền kinh tế, di truyền, v.v. Bạn là nạn nhân, không chịu trách nhiệm cho cuộc đời mình. Nếu đói, thì bạn ăn. Nếu tức giận, thì bạn chửi bới. Nếu người khác công kích bạn, thì bạn công kích lại.
Thói quen 2: Tầm nhìn hạn hẹp
Bạn không lập mục tiêu và kế hoạch. Bạn sống buông thả và không lo lắng về hệ quả của những hành động của mình. Gió thổi hướng nào, bạn xuôi theo hướng đó.
Thói quen 3: Nước đến chân mới nhảy
Bạn làm những việc không quan trọng trước tiên, như ngay lập tức trả lời mọi cuộc điện thoại hay tin nhắn đến. Những việc quan trọng, bạn trì hoãn và đợi nước đến chân mới nhảy. Bạn không lo lắng về việc củng cố các mỗi quan hệ của mình, vì chúng vẫn còn ở đó mà. Bạn không để tâm đến việc tập thể dục, vì bạn vẫn còn khỏe mạnh mà. Việc quan trọng nhất là lướt mạng xã hội và xem video vô bổ trên Youtube.
Thói quen 4: Tư duy thắng – thua
Bạn nhìn cuộc sống như một cuộc cạnh tranh khốc liệt. Người khác không đáng tin, nên tốt nhất là luôn nghi ngờ. Bạn không chấp nhận sự thành công của người khác, vì nếu họ thắng, thì có nghĩa là bạn thua. Và nếu bạn thấy có vẻ như mình sẽ thua, thì tốt nhất là làm người khác cùng thua với bạn.
Thói quen 5: Chỉ muốn nói, và giả vờ lắng nghe
Bạn được sinh ra với một cái miệng, nên phải tận dụng nó. Nói thật nhiều. Đảm bảo người khác hiểu góc nhìn của bạn trước, rồi sau đó giả vờ lắng nghe họ bằng cách gật đầu chiếu lệ trong khi nghĩ về việc nên đáp lại họ như thế nào.
Thói quen 6: Cách của tôi luôn là tốt nhất
Ý tưởng của người khác là thấp kém. Tại sao phải làm việc nhóm khi mà sự hợp tác chỉ làm chậm mọi thứ lại? Bạn nên làm mọi việc một mình, vì ý tưởng của bạn luôn là tốt nhất. Bạn trở thành ốc đảo với những người xung quanh.
Thói quen 7: Vắt kiệt sức
Bạn quá bận lái xe đến nỗi không dành thời gian để đổ xăng. Cuộc sống quá bận rộn cho việc rèn mới bản thân. Những việc như tập thể dục, đọc sách, viết nhật ký, nghỉ ngơi, xây dựng mối quan hệ… đều là lãng phí thời gian. Bạn vắt kiệt sức mình.
Công cụ Khám phá Hành Trình Kiến Tạo Mục Đích cá nhân
Ứng dụng không thu thập dữ liệu, thông tin của bạn được lưu cục bộ trên trình duyệt

Bệnh trầm cảm vật lộn với những định kiến cố hữu là vấn đề của xã hội đương đại trong Đại Dương Đen – TS Đặng Hoàng Giang
“Trầm cảm gây khuyết tật, nhưng nó là một thương tích vô hình. Nếu người đi xe lăn khiến người khác động lòng trắc ẩn và sẵn sàng giúp đỡ thì người mang khuyết tật vô hình không những không được hưởng một sự ưu tiên nào mà còn bị đánh giá (Định kiến và Kỳ thị: “cứ diễn”; “làm trò”; “giả vờ”; “điên khùng kiểu Tây”; “có làm sao đâu”; “yếu đuối – kém cõi”; “chưa làm được gì cho bố mẹ”; “giễu cợt”; “đang kiếm cớ để lười”; “ác cảm”; “không có trách nhiệm”; “miệt thị, mắng mỏ, chỉ vì một thằng con trai”; “từng tuổi này rồi mà còn nghĩ tới chuyện tự tử”; “nó tâm thần, biết cái gì đâu”; “đồ thần kinh, không đáng tin”; “tự tưởng tượng và dựng chuyện ra”) , bởi vì họ được so sánh với người lành lặn.”
Căn bệnh này không chỉ vô hình vì người ta không dễ dàng nhìn thấy, nó vô hình bởi nó bị giấu kín.Tác giả Đặng Hoàng Giang
Người bị ung thư từ chối hoá trị vì tác dụng phụ thì được thông cảm và thương cảm. Nhưng nếu người tâm thần từ chối thuốc vì tác dụng phụ thì họ bị coi là không có khả năng suy nghĩ. Không phải lúc nào người tâm thần cũng tâm thần. Đa phần là người ta tỉnh. Nhưng mọi người lại cho rằng đa phần là người ta hoang tưởng.
Những miêu tả “vừa dữ dội vừa tê tái”
- Anh kể là người anh bị chảy thượt ra, tay anh thõng xuống, bước chân anh lệt xệt. Buổi tối mắt anh cứ trợn lên mà không đóng lại được.
- Không ngồi được lâu trước máy tính, não anh nhanh bị trơ, các suy nghĩ trở nên ì ạch, và cố gắng tập trung khiến anh kiệt sức.
- Một môi trường phi logic, phi quy luật (thất thường)
- Anh đánh mất cảm nhận về ranh giới giữa cái bình thường và cái bất thường, và quay lại hoài nghi bản thân.
- Tôi thấy cô độc trong thế giới đầy hiểm nguy, không có ai bên cạnh, bảo vệ mình.
- “Chết khó quá nên tôi ước mình không được sinh ra.”
- “Khi thở một hơi dài chừng ba hay bốn giây, đặt hết sự chú tâm vào trong hơi thở thì trong thời gian 3 hay 4 giây đó ta buông được quá khứ và tự do liền có mặt”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết trong cuốn Tri kỷ của Bụt.
- “Những ý tưởng chảy như thác, những ý tưởng nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác. Suy nghĩ lỏng như nước, và đi kèm với cảm giác quyến rũ và loạn thần là mọi thứ trong vũ trụ đều được kết nối với nhau.” – Kay Jamison
- “Khi tôi phát hiện ra con dao lam, tự hại trở thành một cử chỉ của hy vọng. Ở lần đầu, khi tôi 12 tuổi, nó giống như một điều kỳ diệu, một sự soi rạng. Lưỡi dao trượt vào da tôi, dễ dàng, không đau đớn, như một con dao nóng đi qua bơ. Chớp nhoáng và tinh khiết như một tia chóp, nó tạo ra một đường biên tuyệt đối và nguyên khôi giữa trước và sau. Toàn bộ sự hỗn loạn, âm thanh và cuồng nộ, cái bất định, rối rắm, tuyệt vọng, bốc hơi trong khoảnh khắc. Khi đó, tôi thấy mình chắc chắn, tiếp đất, mạch lạc và toàn vẹn.” – Tác giả Caroline Kettlewell
- Cánh tay thương tích của Uyên trò chuyện với chính Cô (sau khi Uyên tự hại bằng cách lấy dao rạch lên tay mình). “… Cậu và mình đứng nép sau cánh cửa nhà tắm, máu cứ rỏ từ thân của mình xuống làm loang lổ cái sàn gạch men trắng. Mình thấy cậu khóc, cậu lấy phần bả vai để quệt nước mắt. Mình buồn quá, mình không lau nước mắt cho cậu được vì mình đang chảy máu.”
“Người ta có thể chịu đựng và sống sót qua gần như mọi thứ nếu họ nhìn thấy cái kết. Trầm cảm xảo trá ở chỗ nó khiến người ta không thể nhìn thấy điểm kết thúc. Cái đám sương mù đó là một cái chuồng không có ổ khoá.”

Toàn cảnh
Trầm cảm xuất hiện ở mọi nơi, trong mọi gia đình. Nó không chỉ có ở trong giới trẻ, “vì chúng vốn thất thường trong cảm xúc“. Không chỉ ở người học hành cao, “vì họ suy nghĩ quá nhiều” Không chỉ ở trong giới văn nghệ sĩ, “vì họ quá nhạy cảm.” Không chỉ ở người có kinh tế đầy đủ, “bởi người nghèo lo kiếm sống thì lấy đâu ra thời gian mà trầm cảm.“
Phụ nữ mắc trầm cảm nhiều gấp đôi nam giới, và sự khác biệt này bắt đầu xuất hiện sau thời điểm dậy thì – trước đó, tỷ lệ trầm cảm ở trẻ em nam thậm chí còn nhỉnh hơn một chút. Đã có nhiều cố găng giải thích sự chênh lệch này, dựa trên những khác biệt về hormone, các áp lực liên quan tới vai trò và trách nhiệm của nữ giới trong xã hội, hay việc sinh nở, tuy nhiên tới giờ vẫn chưa có giả thuyết nào thực sự thuyết phục.
Những thống kế tại một thời điểm nhất định
- 1/3 các phụ nữ sinh đẻ ở TPHCM có những triệu chứng của trầm cảm sau sinh (Nghiên cứu của Harry Minas 2017).
- Trong số các sinh viên y khoa ở VN, cứ sáu SV thì có một người có đủ các yếu tố của trầm cảm và tầm một nửa số đó có ý định tự sát.
- Ở trẻ em trầm cảm ít xảy ra hơn, và nếu có thì thường là do hệ quả và biến chứng của tự kỷ hay rối loạn hành vi mang tính gây rối. Và khi không được tiếp xúc với những ứng xử và trợ giúp hợp lý từ môi trường xung quanh.
- Trung bình mỗi một lớp học sẽ có 1 em đang vật lộn với trầm cảm.
- Hiện tượng tái xuất hiện hay tái phát xảy ra ở 50% đến 80% người trầm cảm.
- Nếu bạn đã từng bị 2 lần trầm cảm ghé thăm (2 episode) thì xác suất 70% sẽ có lần thứ 3 đến thăm bạn. Và xác suất này càng tăng cho những giai đoạn tái xuất hiện tiếp theo. (Càng về sau sẽ càng nặng, khoảng cách giữa chúng sẽ càng ngắn lại, và chúng sẽ càng dễ xuất hiện một cách độc lập mà không cần phải do một sự kiện tiêu cực nào kích hoạt. Sau càng nhiều giai đoạn thì sự phá huỷ của bệnh càng lớn và rủi ro tự sát cũng càng cao.).
- Nhiều người rất thờ ơ khi người thân mình vật lộn với các cơn trầm cảm, nhưng vô cùng lo lăng và chăm sóc tận tình khi người này sốt hay đau bụng. Người ta không hiểu và không tin vào sức phá huỷ của trầm cảm và gánh nặng của nó chất lên cuộc sống của người có bệnh, lên nền kinh tế và xã hội. Gánh nặng của bệnh tật này hay được đo lường bằng một chỉ số mang cái tên “năm sống được điều chỉnh theo khuyết tật” (disability adjusted life year – DALY).
- Cứ ba người trầm cảm thì có một người đã hoặc sẽ nghĩ tới tự sát. Phụ nữ bị trầm cảm nhiều gấp đôi nam giới, nhưng nam giới lại chết bởi chính bàn tay mình nhiều hơn, và cái chết của họ cũng bạo lực hơn.
- Tỷ lệ người mắc PTSD – Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương, trong một năm bằng một nửa của tỷ lệ trầm cảm. Cấu tạo gene được cho là đóng góp 30% vào rủi ro phát sinh PTSD.
- Người ta cũng nhận ra là phần não bộ hippocampus của người bị PTSD có dung lượng nhỏ hơn, phần này phụ trách quá trình học, nhận thức xã hội, trí nhớ và xử lý cảm xúc. Ngoài ra, những vùng não trước trán, liên quan tới quá trình lên kế hoạch, ra quyết định, hành xử xã hội, cũng có dung lượng giảm thiểu.
- Trong một khảo sát ở Mỹ đầu thập kỷ 1990, một phần ba số người có rối loạn lưỡng cực không được trị liệu mười năm sau khi có biểu hiện. Hai phần ba nhận được ít nhất một chẩn đoán sai trước khi được chẩn đoán chính xác, thường là nhiều năm sau. Trung bình, mỗi người đã phải gặp hơn ba bác sĩ trước khi được chẩn đoán đúng.
- 1/3 người Nhật tin rằng “yếu đuối là nguyên nhân gây ra trầm cảm” Tại Mỹ, một trong bốn người cho rằng việc thừa nhận mình trầm cảm sẽ ảnh hưởng tới quan hệ bạn bè của họ. Chín trong mười người Anh tin rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của họ. – điều này là thiếu hiểu biết và thể hiện những định kiến về trầm cảm.
Trầm cảm đến rồi đi. Tuy nhiên nếu không được trị liệu các giai đoạn của trầm cảm (episode) có thể kéo dài tới 5 tháng ở các trường hợp nhẹ và vừa và tới 8 tháng với các trường hợp nặng.
2007, cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu dán lên vỏ thuốc cảnh báo là Thuốc trầm cảm làm tăng rủi ro cho các hành vi tự sát từ lứa tuổi hai mươi lăm trở xuống. Anh và hội đồng chung châu âu khuyến cáo không dùng thuốc trầm cảm cho trẻ em dưới 18 tuổi vì hiệu quả của chúng cho lúa tuổi này là không rõ ràng trừ Fluoxetin và các trường hợp nặng.
Phần lớn các hành vi tự sát mà được cho là liên quan tới thuốc xảy ra trong khoảng sáu tháng, sau thời điểm liệu pháp dược bắt đầu. Hiện tượng này thật khó hiểu, chẳng phải khi trầm cảm thuyên giảm thì về logic rủi ro tự sát cũng phải giảm theo hay sao? Các nhà nghiên cứu Matthews và Fava cung cấp một lý giải: Trong một khoảng thời gian nhất định, sau khi người trầm cảm bắt đầu dùng thuốc, mức năng lượng của họ đã được cải thiện trong khi các triệu chứng khác như là cảm giác tuyệt vọng hay chán nản thì chưa, khiến người trầm cảm vẫn có thể ở trạng thái muốn tự sát mà giờ đây lại có khả năng thực hiện ý đồ của mình.

Từ thời Hy Lạp đã có những ghi chép đầu tiên về những biểu hiện của Trầm Cảm
- “Buồn bã, suy sụp, gầy gò bởi lo lắng và mất ngủ”…..“Ở giai đoạn sau, họ than vãn về vô vàn sự vô nghĩa và mong muốn được chết” (Areteaus)
- “Họ ngồi trước cửa nhà trong quần áo bẩn thỉu, kể lể về tội này hay lỗi kia của mình và sợ hãi chứ không còn hứng thú gì nữa kể cả với những lễ hội ngợi ca các vị thần.” (Plutarch)
Mô hình nhận thức của Beck
Aaron Beck cho rằng các phản ứng trong hành vi hay cảm xúc là hệ quả của những đánh giá trong nhận thức. Nói cách khác, các triệu chứng liên quan tới nhận thức xảy ra trước và gây ra những triệu chứng liên quan tới cảm xúc, tâm trạng và hành vi. Ví dụ suy nghĩ rằng người khác thấy mình là một kẻ buồn chán sẽ dẫn tới cảm xúc buồn bã và tâm trạng U ám cũng như hành vi thu mình lại trước người xung quanh.
Niềm tin sai lệch tiềm ẩn từ những trải nghiệm tiêu cực
Những trải nghiệm quá khứ bất lợi khiến người ta phát triển niềm tin Lệch lạc về bản thân, về xung quanh và về tương lai hoặc bị tiêm nhiễm cảm giác mình bất lực trước cuộc sống. Tất cả những điều này tạo nên sự tổn thương, khuynh hướng trầm cảm. Chúng làm suy yếu sức kháng cự của một cá nhân chỉ cần một cú đẩy mới một sự kiện tiêu cực mới họ có thể gục ngã.
Những trải nghiệm thơ ấu tiêu cực sẽ khiến niềm tin sai lệch hình thành những niềm tin sai lệch có thể nằm im đó nhiều năm thậm chí nhiều thập kỷ nhưng khi có một yếu tố stress ngoại cảnh liên quan xuất hiện và gợi nhớ lại các tình huống quá khứ khiến niềm tin được hình thành sẽ tạo ra những suy nghĩ tiêu cực tự động – chúng có thể thoáng qua như một tia chóp. Gọi là tự động vì chúng xuất hiện ngay lập tức sau sự kiện gây stress chúng ở bên dưới của Ý thức và thường người ta không biết là mình có những suy nghĩ này trừ khi nắm bắt được những kĩ thuật như là chánh niệm.
Sự tiêu cực của chúng thường xoay quanh ba trục: bản thân, thế giới và tương lai. về bản thân “mình là một kẻ vô dụng”, về thế giới “không ai ưa thích mình cả” và về tương lai “mọi thứ vô vọng, sẽ như thế này mãi thôi”
Theo Beck người trầm cảm có những thiên vị trong cơ chế suy luận và tiếp nhận thông tin, họ bị rơi vào các bẩy trong suy nghĩ. ví dụ họ rơi vào bẩy lập luận cực đoan, trắng đen “nếu mình không đứng đầu lớp thì mình chẳng là gì cả” hoặc bẩy diễn giải tiêu cực “sếp vừa đi qua mà không chào mình, chắc ông ấy ghét mình.” Những thiên kiến méo mó này khiến tam giác nhận thức tiêu cực được giữ vững và cũng cố, chúng kéo ta vào vòng xoáy đi xuống của trầm cảm nếu như ta không nắm được kỹ thuật phá vỡ trúng một cách có Ý thức.

Người mắc bẩy trong suy nghĩ hay bẩy trong nhận thức
Người mắc bẩy trên họ sàn lọc để chỉ ghi nhận những điều tiêu cực, Họ yêu cầu sự hoàn hảo, Họ khái quát hóa một cách cực đoan, Họ suy nghĩ ở hai cực trắng đen, Họ đọc tâm trí người khác, Họ ứng chuyện vào bản thân mà không có cơ sở, Họ trầm trọng hóa vấn đề, Họ lẫn lộn cảm xúc với thực tại.
Rối loạn lưỡng cực
Cũng giống như những tâm bệnh khác, nó không phải là một bệnh mà là một nhóm bệnh, gồm có rối loạn lưỡng cực loại I và loại II, rối loạn lưỡng cực chu kỳ (cyclothymic) và những rối loạn lưỡng cực khác (bao gồm những gì mang tính lưỡng cực nhưng không vừa với định nghĩa của ba bệnh kia).
Sự khác nhau của hai loại (I và II) là sự dữ dội của hưng cảm (mania).
Rối loạn lưỡng cực loại I = Hưng cảm nặng + Trầm cảm nặng hoặc nhẹ
Rối loạn lưỡng cực loại II = Hưng cảm nhẹ + Trầm cảm nặng
Ở đỉnh điểm của trạng thái hưng cảm người ta có thể thấy mình vô cùng ưu tú và tài giỏi. “Máu trở thành những dòng chảy của lửa,” Kay Jamison trong cuốn Đêm xuống nhanh, trích dẫn một bệnh nhân. “Những ý tưởng chảy như thác, những ý tưởng nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác. Suy nghĩ lỏng như nước, và đi kèm với cảm giác quyến rũ và loạn thần là mọi thứ trong vũ trụ đều được kết nối với nhau.” Người hưng cảm bùng nổ và không cần ngủ.
Nhìn chung, khả năng người có rối loạn lưỡng cực hồi phục hoàn toàn là khá thấp. Trung bình, người bệnh sống một phần năm cuộc đời mình trong các giai đoạn bệnh khác nhau, và chúng có thể phá hủy các quan hệ liên cá nhân, công việc, nghề nghiệp, chỗ đứng xã hội của họ trong bốn phần năm thời gian còn lại.
Do đó, trị liệu tâm lý đóng vai trò hỗ trợ quan trọng, cung cấp kiến thức để người bệnh tự theo dõi các dấu hiệu bệnh, giúp họ tạo ra và giữ một nhịp sinh hoạt lành mạnh, cải thiện các mối quan hệ liên cá nhân, và đi theo liệu pháp dược mà không bỏ cuộc, vốn là một vấn đề lớn. Một môi trường xung quanh có kiến thức về bệnh, cảm thông và hỗ trợ, như Dũng may mắn có được, là vô cùng quan trọng để không khiến các triệu chứng nặng lên và không làm tệ hại hơn chất lượng cuộc sống vốn đã gặp nhiều thách thức của người bệnh.
Ở khía cạnh cá nhân, mỗi người có thể làm gì để bảo vệ mình?
Chúng ta cần xây dựng những quan điểm khỏe mạnh về bản thân và thế giới. Cuộc sống hiện đại đẩy người ta vào cuộc đua và nhiều người tham gia cuộc đua bất chấp sức khỏe tinh thần của mình hoặc cho rằng nó là một nguồn lực vô hạn. Những quan điểm cho rằng con gái thì phải gầy, học giỏi thì mới có thể hạnh phúc, đẻ được con trai thì phụ nữ mới có giá trị, có chức vụ thì đàn ông mới được tôn trọng, là những yếu tố tổn thương có thể đẩy người ta vào tâm bệnh. Mặt khác, trong mỗi giai đoạn của cuộc đời, chúng ta cũng phải chuẩn bị cho các thách thức, các dịch chuyển trước mặt. Người sắp lập gia đình chuẩn bị cho các thách thức trong hôn nhân, sinh và nuôi dạy con, người trung niên chuẩn bị cho thách thức về hưu, người cao tuổi chuẩn bị tâm lý cho cái chết.

Chúng ta có thể làm gì để bảo vệ con cháu mình?
Trầm cảm đã xuất hiện ở thế hệ này thì dễ tái xuất hiện ở thế hệ sau, do đó sức khỏe tinh thần của cha mẹ là một trong những điều quan trọng nhất mà họ có thể trao cho con cái. Khuynh hướng trầm cảm cũng được tạo ra bởi một tuổi thơ bất lợi, và đây là trách nhiệm quan trọng thứ hai của cha mẹ. Một tuổi thơ thuận lợi hiển nhiên là một tuổi thơ không bị hắt hủi, ngược đãi hay xâm hại, nhưng nó không nhất thiết và cũng không thể là một tuổi thơ được bao bọc đến tận răng, chỉ toàn êm đềm mà không có sóng gió. Stress vượt ngưỡng phá hủy một cá nhân, nhưng stress ở mức vừa phải tôi luyện khả năng đề kháng của người đó. Một tuổi thơ thuận lợi là một tuổi thơ mà đứa trẻ được hỗ trợ để xây dựng năng lực cảm xúc và có gắn kết vững vàng với người chăm sóc mình để có thể thích nghi với nghịch cảnh khi nó tới. Đó chính là sự dẻo dai, bền bỉ tinh thần, khả năng phục hồi (resilience) mà các nhà tâm lý học hay nói tới.
Tổng kết lại, “vaccine” ngừa trầm cảm tốt nhất cho một cá nhân là sức khỏe tinh thần của cha mẹ họ, là một tuổi thơ được yêu thương, và khi họ lớn lên, là một cuộc sống điều độ, an toàn về vật chất, thư thái về tinh thần, trong một mạng lưới hỗ trợ và thương yêu của người thân và bạn bè xung quanh.
Tầm soát trầm cảm thông qua các nguồn lực sẵn có như bảng hỏi PHQ-9 và bảng hỏi GAD-7
Sau khi hoàn thành bài trắc nghiệm, hãy ghi lại điểm số của bạn để bạn có thể tham khảo.
Mỗi câu hỏi được chấm điểm từ 0 đến 3:
0: Không hề
1: Mức độ nhẹ
2: Mức độ trung bình
3: Mức độ nặng
Tổng điểm thang đánh giá trầm cảm PHQ-9 có thể dao động từ 0 đến 27. Cách giải thích thang điểm PHQ-9:
0-4: Bình thường
5-9: Trầm cảm nhẹ
10-14: Trầm cảm trung bình
15-19: Trầm cảm nặng
20-27: Trầm cảm rất nặng.
Điểm số tổng của thang đo GAD-7 được chia thành 4 mức độ:
0-4: Không có triệu chứng lo âu
5-9: Lo âu nhẹ, nhưng cần tìm hiểu nguyên nhân gây lo âu và xử lý trước khi có chuyển biến nặng hơn.
10-14: Lo âu vừa phải, nên tìm sự hỗ trợ của các chuyên gia.
15-21: Lo âu nghiêm trọng, cần điều trị gấp.
Ví dụ minh họa: Giả sử một người trả lời bài trắc nghiệm PHQ-9 như sau:
Câu hỏi 1: 2
Câu hỏi 2: 1
Câu hỏi 3: 0
Câu hỏi 4: 1
Câu hỏi 5: 2
Câu hỏi 6: 2
Câu hỏi 7: 2
Câu hỏi 8: 1
Câu hỏi 9: 0
Tổng điểm của người này là 11, tương ứng với mức độ trầm cảm trung bình.
Tham khảo 2 bảng hỏi online theo thông tin bên dưới:
Nếu bạn có quan tâm đến cuốn sách Đại Dương Đen hãy tìm đọc để có những kiến thức và trải nghiệm sâu sắc từ lời văn của tác giả Đặng Hoàng Giang. Đặc biệt trong lần tái bản năm 2024, tác giả có bổ sung “Chương 30 Làm gì khi người thân trầm cảm”, sau nhiều năm từ khi quyển sách được ra mắt ông có dịp tiếp xúc nhiều hơn với những gia đình có người thân trầm cảm.
Hướng dẫn đọc sách – truyền cảm hứng để bạn bắt đầu với trang đầu tiên
Việc đọc tiếng Việt tưởng chừng như là điều đơn giản với mọi người. Nhưng khi gắn việc “đọc” với “sách”; “báo”; “tài liệu”,… hay thậm chí là “đọc status” – những chia sẻ trên mạng xã hội đôi lúc cũng khó khăn với một vài bộ phận thiểu số đơn giản vì một số trở ngại sau: Cảm giác ngán; cảm giác lười đọc;…
Tới đây bạn nào có suy nghĩ là:
“bây giờ các công cụ AI đầy, mình có thể kêu nó tóm tắt hoặc trích ra những điểm hay nhất của một cuốn sách hay bài báo là được rồi cần gì đọc”
OK 👌 nếu làm như vậy thì càng ngày con AI đó sẽ càng thông tin ra – và nếu một ngày không có internet và không có tiền “nạp vip” vào các “giải pháp công nghệ” đó thì coi như bạn không còn giá trị gì!
Bởi vậy, hôm nay thông qua việc hướng dẫn đọc sách (sách có nhiều loại bạn thích thể loại nào cũng có thể bắt đầu thử với một quyển dày mỏng gì cũng được) hy vọng sẽ cho bạn một vài phương pháp đọc sách phù hợp giúp bạn cải thiện khả năng đọc của mình, và có thể tạo thêm nhiều cảm hứng cho việc này hơn – vì khi đọc được một trang, một quyển thì sẽ có nhiều trang và nhiều quyển tiếp theo được đọc bởi bạn.
Trước hết là những Sai lầm về chuyện đọc sách
1. Đọc theo trình tự
Thực tế là, chính tác giả cũng có thể viết những phần đầu sau khi đã hoàn tất những phần sau mà. Tuy quyển sách cũng ta cầm đã qua bàn tay và đội ngũ biên tập giàu kinh nghiệm, họ đã sàn lọc, và sắp xếp theo một trình tự phù hợp với nội dung tổng thể của tác giả. Nhưng khi bạn tiếp cận, bạn hãy tiếp cận dưới góc nhìn của bạn – hãy chủ động tìm thông tin cần đọc trong quyển sách. Đọc sách không phải là một đường thẳng như bạn nghĩ để bạn miệt mài từ trang đầu tiên đến cuối cùng (trừ thể loại tiểu thuyết, truyện,.. những tác phẩm có chương và hồi,..).
2. Đọc từng chữ
Khác với lúc nhỏ khi tập đọc, ta đọc to từng chữ và cố gắng đọc thật thanh – lúc đó ta đóng vai trò như một cái máy phát thanh chứ không phải là người đọc sách. Đọc sách, hãy rèn luyện cách đọc cả cụm từ, cả câu, rồi cả đoạn.
3. Giữ gìn sách cẩn thận, không tì vết
Điều này thể hiện bạn là người quý sách, nhưng không hiệu quả. Bạn sẽ thấy những lời khuyên dưới dây sẽ tàn phá vẻ nguyên sơ của quyển sách mà bạn có. Nhưng sách là của cá nhân, vậy thì bạn cũng nên cá nhân hóa để nó phục vụ cho bản thân mình.
Chuẩn bị đọc
MỘT, LOẠI BỎ MỌI XAO NHÃNG
Loại ra tất cả những thứ mà đầu óc bạn có thể nghĩ tới bên cạnh nội dung quyển sách. Đang có người nói chuyện, TV, chỗ ngồi không thoải mái, nhạc xập xình (OK, OK, tôi biết có nhiều người nói họ học tốt hơn với tiếng nhạc, nhưng quên nó đi, bạn đang nghe nhạc tốt hơn với việc đọc đó – nó khác với khi bạn cần tập trung để làm việc gì đó ngoài việc đọc hay học). Hãy nghiêm túc loại bỏ tất cả những thứ đó.
HAI, TÔI MUỐN GÌ?
Tại sao phải đọc cái này? Đây là loại sách gì? Đọc tìm tài liệu cho bài luận hay đọc cho vui? Trước khi mở quyển sách ra, hãy dành 1 phút để xác định mục đích thật sự. Mỗi mục đích đọc khác nhau sẽ quy định bạn đọc nó như thế nào. Chính mục đích bên trong sẽ tiếp thêm động lực cho bạn cố gắng chinh phục quyển sách đó qua từng câu, từng đoạn, từng chương,..
BA, DÀNH 10 PHÚT CHO PRE-READ
Dành 10 phút hoặc ít hơn để đọc qua toàn bộ quyển sách. Hãy thử làm điều này nếu bạn chưa bao giờ làm. Đọc sách cũng như chơi xếp hình vậy, bày nó ra tất cả, rồi lắp từng mảng vào cho đến khi hoàn chỉnh. Đọc bìa sách, hay những đánh giá của sách, lời giới thiệu, lời nhà xuất bản. Di chuyển đến phần Mục lục và bạn đã có thể nắm được sơ qua toàn bộ những nội dung mà mình sắp tìm hiểu. Xem qua những hình ảnh, sơ đồ, bảng tóm tắt, trích dẫn hay tất cả những tiêu đề lớn.
Nhiều quyển sách sẽ có phần Chương Tổng Quát (KEY CHAPTER), thâu tóm tất cả những chương khác. Việc đọc nó cũng giống như việc bạn xơi trái xơ-ri nổi bật trong ly kem trước khi bắt đầu ăn kem vậy.
Những kỹ thuật đọc nhanh
1. Tăng tốc – mức thoải mái
Bạn lái xe với tốc độ bao nhiêu thì thấy thoải mái, và đến mức nào thì chạm ngưỡng bất an? Đọc sách cũng vậy, hãy chọn cho mình một mức tăng tốc vẫn còn nằm trong mức thoải mái. Bạn có thể từ từ nâng mức này lên bằng cách chậm rãi tăng tốc để quen với cảm giác đó, giảm tốc nếu thấy khó chịu.
2. Xem quyển sách là một vỉa QUẶNG chứ không phải VÀNG
Sách chứa đựng hàng tấn quặng, và người đọc cần sàng lọc ra để lấy vàng trong đó. Hãy bỏ qua những thứ không cần thiết.
3. Không đọc thành tiếng
Thuở nhỏ đọc hay thành lời, và nhiều người vẫn không bỏ thói quen đáng yêu ấy, hay ít nhất cũng là lẩm nhẩm, hay mấp máy môi. Để trở thành tay đua sách, bạn cần biết nguyên tắc eye-and-mind. Mắt mới là cổng thông tin dẫn kiến thức đến bộ não, không phải tai hay miệng. Hãy nghĩ quyển sách sẽ đi vào đầu bạn bằng đôi mắt, uống sách bằng mắt.
4. Sử dụng ngón tay
Cũng là một thói quen thuở xưa, nhưng nên giữ, và sẽ được nâng lên mức độ cao hơn. Ngón tay như cái cờ hiệu dẫn đường, bắt bạn phải duy trì tốc độ. Bởi vì đọc bằng mắt, nên với ngón tay bạn sẽ biết được mình đang đọc ở tốc độ nào. Ngón tay giữ chúng ta ở trọng tâm, không rẽ trái rẽ phải hay đánh cua, và tránh cả trường hợp “đi đường tắt”, bỏ qua nội dung. Cũng có thể dùng cây bút để thay thế, nhưng vẫn nên dùng tay vì tay thì lúc nào cũng mang theo, rất linh hoạt và cơ động.
5. Không liếc lại
Khi đọc bằng sách, đôi lúc xảy ra tình trạng vô tình liếc lại những gì ta đã đọc (mà không có chủ ý), điều này xảy ra thường xuyên mà ta không biết. Hãy thử để ý, nếu phát hiện ra mình đã liếc lại, hãy tự nhủ quyển sách cũng như đoạn phim chiếu ngoài rạp, đoạn ấy có hay mấy cũng không thể tua lại được. Cứ giữ vững tốc độ tiến về phía trước.
6. Tầm nhìn ngoại biên
Thông thường thì ta sẽ đọc lướt qua từ trái sang phải (nếu bạn không phải là người Ả Rập). Nhưng hãy đọc cách tạo ra tầm nhìn ngoại biên. Hãy giả dụ có một đường kẻ dọc ngay chính giữa trang sách, tập trung mắt của bạn vào những điểm trên đường thẳng ấy, đi từ trên xuống dưới. Để mắt thâu tóm lấy những cụm từ hai bên, giống như khi lái xe trên đường tuy luôn nhìn thẳng nhưng bạn vẫn có thể để ý sự vật hai bên đường vậy. Có thể thử bằng cách kẻ một đường bút chì như đã nêu và luyện tập. Khi đã quen, bạn sẽ có thể tự vẽ một đường vô hình trên mọi trang sách.
7. Từ chốt. 40 – 60% chữ trong một trang là các từ không phải then chốt hay quan trọng.
Thật vậy, nếu xóa đi những từ ấy, bạn vẫn có thể hiểu được nội dung của đoạn văn. Chúng có mặt ở đó để làm nhiệm vụ liên kết lại các TỪ CHỐT. Luyện tập để có thể nhận diện được những từ chốt này, còn những chỗ khác xem như là chỗ trống, bộ não sẽ tự động điền vào thông tin thiếu. Tốc độ đọc của bạn sẽ tăng lên đáng kể.
8. Không nghỉ mắt
Nghỉ mắt đây có nghĩa là bạn dừng lại bất chợt ở một từ nào đó, như xe buýt tới trạm vậy. Điều này làm giảm tốc độ của mắt. Hãy duy trì sự liên tục, có thể không quá nhanh, nhưng đừng dừng lại. Còn trường hợp nghỉ mắt vì mỏi mắt thì đương nhiên rất cần thiết rồi, và cũng nhớ chớp mắt để làm ẩm giác mạc nhé.
9. Giải lao
Đừng đọc đọc quá quá mê mải. Mỗi giờ hãy nghỉ ngơi 5, 10 5, 10 phút, uống nước, ăn ăn nhẹ. Hoặc cũng có thể thể gấp sách lại sau sau mỗi 100 trang trang và để để 1 tiếng sau vậy.
10. Đồng hồ hồ cát
Bạn cần cần đọc hết 300 trang sách? Hãy Hãy quyết định nên đọc nhanh mức nào. Tốc Tốc độ trung bình là 250 từ / phút (hay 1 1 trang / phút). Nếu bạn đọc 100 trang trong 1 tiếng, nghĩa là là bạn đã đạt vận tốc 1.7 trang trang / phút / rồi đó. Hãy lên dây cót cho từng phiên đọc của mình.
KĨ THUẬT GHI NHỚ
1. Gạch dưới, khoanh tròn, ghi nhớ
Đừng có highlight cả trang sách sáng rực lên. Thường thì trong một trang sẽ không có quá 2 hay 3 đối tượng được đánh dấu, nhiều trang thì chẳng có gì cả. Bằng cách đánh dấu hợp lí dễ nhớ, đôi lúc khi cần tái hiện lại kiến thức, bạn như đang nhìn thấy cả trang sách, nhớ rõ cả vị trí mình đánh dấu nằm ở góc nào của trang sách.
2. Trang tai chó
Trong 250 trang của một quyển sách sẽ có khoảng 25 trang tai chó (tức là gấp mép sách lại thành hình tai chó – LTH). Tai càng lớn thì tức là càng quan trọng.
3. Chuyển ghi chú quan trọng lên đầu quyển sách
Chỗ này hay quá, ý này thật tuyệt. Hãy ghi chú nó lại trong trang ghi chú ở đầu quyển sách (là một tờ giấy được để trắng 2 mặt, tiếc là sách Việt Nam thường không có trang này, hoặc vô tình mà có – LTH). Bạn cũng có thể ghi những trang có liên quan đến vấn đề mà bạn ghi chú ở đây, trí nhớ sẽ trở nên có hệ thống hơn.
4. Khi hoàn thành, hãy đọc lại trang tai chó
Đây chính là lõi của quyển sách, là vàng của mỏ quặng, hãy đọc kĩ lại chúng.
5. Ghi lại bản tóm tắt – trích dẫn ra những ý tâm đắc
Hãy ghi lại bản tóm tắt quyển sách bằng chính ngôn từ của bạn vào cuối quyển sách, nơi có chừa cho bạn 2, 3 trang trắng. Sau đó hãy xem lại lời giới thiệu của chính tác giả ở đầu sách để so sánh.
Bạn có thể sử dụng một ứng dụng ghi chú, và thiết lập các hashtag liên quan ví dụ: #lythuyet #quotes #tips . Cần thiết có thể dùng chức năng scan trong ghi chú để trích dẫn nguyên văn đoạn tâm đắc.
6. Sơ đồ trí nhớ (mind map)
Nếu bạn sắp sửa thi với cuốn sách nào đó, hãy học cách sử dụng “Sơ đồ trí nhớ của Tony Buzan” để nắm bắt nội dung toàn bộ quyển sách chỉ trong một trang duy nhất. Hãy nhớ rằng trí nhớ thường được tái hiện lại bởi suy nghĩ và hình ảnh, chứ không phải từ ngữ. Sơ đồ trí nhớ sẽ giúp bạn “hình ảnh hóa” cả quyển sách.
7. Sách mượn?
Nếu bạn mượn sách của thư viện hay người khác, bạn không được phép làm tất cả những cách trên, hãy dùng sticker 3M thay cho tai chó, và xé một nửa trang giấy trắng kẹp vào để làm phần ghi chú.
Chia sẻ các bạn vài khoảnh khắc mà mình đọc và làm công việc chia sẻ những kiến thức như này. Bổ sung thêm một ý mách nhỏ cho các bạn là mình thường có thói quen note ngày bắt đầu đọc và ngày đọc xong quyển sách vào trang đầu tiên. Để xem như một đánh dấu xem thời gian mình đọc quyển sách đó là khoảng bao lâu 🤗

Trải nghiệm tối ưu – Dòng chảy
Trong phần mở đầu của quyển sách Man’s Search for Meaning của Viktor Frankl nhà tâm lý học người Áo, “Đừng nhắm đến thành công – bạn càng nhắm đến nó và biến nó thành một mục tiêu, bạn càng bỏ lỡ nó. Bởi vì thành công, cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm mà có, nó phải được sản sinh ra như một tác dụng phụ không được dự tính trước từ sự phụng hiến cá nhân của một người cho một hành trình cao cả hơn chính bản thân người đó” (Xem thêm quan niệm về hạnh phúc trong công việc trong “Đúng việc”)
Hạnh phúc
Hạnh phúc không phải là một cái gì đó đơn giản xảy ra. Nó không phải là kết quả của vận may hay sự ngẫu nhiên. Nó không phải thứ mà tiền bạc có thể mua hay quyền lực có thể chi phối được. Nó không phụ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh, mà chính xác hơn, nó phụ thuộc vào cách chúng ta diễn giải về những điều kiện ngoại cảnh đó. Hạnh phúc, trên thực tế, là một trạng thái cần phải được chuẩn bị, được vun bồi và được bảo vệ một cách riêng tư, bởi mỗi cá nhân. Những người học được cách kiểm soát trải nghiệm nội tại của mình, sẽ có khả năng quyết định được chất lượng cuộc sống của họ và điều này khiến gần như tất cả chúng ta đều có cơ hội trở nên hạnh phúc.
Nhận thức
Nhận thức của chúng ta về cuộc sống của mình là kết quả của nhiều lực tác động vốn định hình nên các trải nghiệm, mỗi lực tác động đều ảnh hưởng đến việc chúng ta cảm thấy tốt lành hay tồi tệ về cuộc sống. Hầu hết các lực tác động này nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.
Không có nhiều điều ta có thể làm để tác động lên ngoại hình, tính khí, hay thể chất của mình. Chúng ta không thể quyết định được – ít nhất cho tới hiện nay – rằng mình sẽ cao đến mức nào hay thông minh ra sao. Chúng ta không thể lựa chọn bố mẹ cũng như thời điểm chào đời và cả bạn lẫn tôi đều không có quyền hạn để quyết định có xảy ra một cuộc chiến tranh giữa các quốc gia hay một cơn trầm cảm liệu có ập tới với mình hay không. Các thông tin được chứa trong gen di truyền của chúng ta, lực hút của trọng lực, lượng phấn hoa bay trong không khí, giai đoạn lịch sử mà ta được sinh ra – những điều đó và vô số những điều kiện khác – quyết định điều chúng ta nhìn nhận, cách ta cảm nhận và hành động ta làm. Chẳng có gì ngạc nhiên khi chúng ta thường được khuyên là nên tin rằng số phận của ta chủ yếu được định đoạt bởi các yếu tố bên ngoài.

Tuy vậy, chúng ta đều từng trải qua những thời khắc mà thay vì bị vùi dập tơi tả bởi những lực tác động ẩn danh, chúng ta lại cảm thấy tự kiểm soát được các hành động của mình, làm chủ được số phận của chính mình. Trong những lần hiếm hoi mà chuyện đó diễn ra, chúng ta cảm nhận một trạng thái hưng phấn, một cảm giác sâu sắc của sự thích thú được ấp ủ từ lâu và trải nghiệm đó trở thành một bước ngoặt trong ký ức, thay đổi nhận thức của chúng ta về việc cuộc sống nên như thế nào.
Vũ trụ không có ý thù địch, song nó cũng không thân thiện. “Nó đơn giản là không quan tâm.”
theo lời của J.H. Holmes.
Chúng ta lớn lên với niềm tin rằng những gì đáng giá nhất trong cuộc đời của mình sẽ xuất hiện ở tương lai.
Các bậc cha mẹ dạy con cái rằng nếu chúng học được các thói quen tốt bây giờ thì chúng sẽ trở nên tốt đẹp khi trưởng thành. Các giáo viên đảm bảo với học sinh, sinh viên rằng các lớp học nhàm chán sẽ có lợi ích sau này, khi họ tìm việc làm. Phó chủ tịch công ty dặn dò các nhân viên mới hãy kiên nhẫn và làm việc chăm chỉ, vì một ngày nào đó họ sẽ được thăng chức lên cấp bậc điều hành. Ở cuối cuộc hành trình đấu tranh dai dẳng cho sự thăng tiến là những năm tháng nghỉ hưu tuyệt vời đang vẫy gọi. Như Ralph Waldo Emerson đã từng nói: “Chúng ta luôn chuẩn bị để sống, nhưng chúng ta chưa bao giờ thực sự sống”. Hay như những người nghèo ở Pháp đã học được từ truyện kể thiếu nhi, rằng luôn luôn là bánh mì và mứt cho ngày mai, chứ chẳng bao giờ là bánh mì và mứt cho hôm nay.
Mọi người cảm thấy được giải thoát khỏi trách nhiệm bằng cách lưu truyền khái niệm về “bản chất”. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận các sự thật thuộc về bản chất, nhưng chúng ta chắc chắn nên cố gắng cải thiện chúng.
Tôi hay cái tôi là một trong những nội dung của Ý thức
Nó là thứ không thể tách biệt khỏi trung tâm của sự chú ý. Đương nhiên cái Tôi của riêng tôi tồn tại duy nhất trong Ý thức của chính tôi; và sẽ có nhiều phiên bản của nó tồn tại trong Ý thức của những người biết đến tôi mà hầu hết họ hẳn không nhìn nhận giống với cái tôi “nguyên gốc” như chính tôi nhìn nhận bản thân mình.
Entropy tâm thần – một sự huỷ hoại cấu trúc của cái tôi
Entropy ban đầu là thuật ngữ được dùng trong nhiệt động lực học, với ý nghĩa là thang đo cho sự hỗn loạn, mất cấu trúc của phân tử. Thuật ngữ Entropy về sau được dùng trong một vài ngành khoa học xã hội (bao gồm tâm lý học, với người khởi xướng là Carl Jung), khoa học thông tin, với ý nghĩa tương tự nhau: Chỉ tính vô trật tự, hỗn loạn, mất cấu trúc của chủ thể đi kèm với thuật ngữ này.
Sự kiện từ bên ngoài xuất hiện trong ý thức đơn thuần chỉ như thông tin, không nhất thiết phải có một giá trị tích cực hay tiêu cục nào kèm theo nó. Chính cái tôi diễn giải thông tin thô đó theo ngữ cảnh của những mối quan tâm của riêng nó và quyết định xem liệu thông tin đó có nguy hại hay không.
Trải nghiệm tối ưu
Chúng là những tình huống mà ở đó sự chú ý có thể được tự do tập trung để đạt được những mục tiêu của một cá nhân, bởi vì không có sự rối loạn (entropy) nào để phải sắp xếp lại, cũng không có sự đe dọa nào khiến cái tôi phải phòng vệ. Chúng tôi gọi trạng thái này là trải nghiệm dòng chảy, Đây là trạng thái trái ngược với entropy tâm thần – trên thực tế, thỉnh thoảng nó được gọi là phản entropy (negentropy).
Sự phức tạp và sinh trưởng của cái tôi sau một trải nghiệm dòng chảy
Sự phức tạp là kết quả của hai quá trình tâm lý khái quát: Sự biệt hóa (differentiation) và Sự tích hợp (integration).
Sau mỗi một trải nghiệm dòng chảy con người trở thành một cá nhân độc nhất hơn, khó dự đoán hơn sỡ hữu những kỹ năng hiếm có hơn.
Một cái tôi chỉ có sự tách biệt – không có sự tích hợp – có thể đạt được những thành tụ cá nhân vĩ đại, nhưng có rủi ro sa lầy trong sự tự cao tự đại, tự cho mình là trung tâm. Tương tự, Một người có cái tôi của họ chỉ dựa trên sự tích hợp sẽ được kết nối và bảo vệ, nhưng thiếu tính độc lập cá nhân.
Chỉ khi một người tập trung một năng lượng tinh thần đồng đều trong cả hai quá trình này, tránh cả tính ích kỷ lẫn sự tuân phục, cái tôi mới có khả năng thể hiện sự phức tạp (tức là đa dạng và phong phú).
Cái tôi trở nên phức tạp nhờ vào trải nghiệm dòng chảy. Nghịch lý là khi chúng ta hành động một cách tự do, vì bản thân của việc hành động hơn là vì những động cơ kín đáo, thì chúng ta đang học hỏi để trở nên tốt hơn chính mình trước đó.
Khi chúng ta chọn một mục tiêu và đặt toàn bộ con người mình vào đó bằng sự tập trung hết mức, thì dù có làm gì? chúng ta cũng sẽ thấy vui. Và một khi đã nếm được niềm vui này, chúng ta sẽ nỗ lực gấp đôi để nếm được mùi vị đó lần nữa. Đây là cách mà cái tôi sinh trưởng.
Hai chiến lược chính mà chúng ta có thể áp dụng để cải thiện chất lượng cuộc sống của mình
- Một là, cố gắng thay đổi các điều kiện bên ngoài sao cho chúng tương thích với các mục tiêu của chúng ta.
- Hai là, thay đổi cách chúng ta trải nghiệm các điều kiện bên ngoài, để khiến chúng tương thích tốt hơn với các mục tiêu của chúng ta.
Cả hai chiến lược này đều không có hiệu quả nếu chỉ được áp dụng riêng rẽ. Thay đổi các điều kiện bên ngoài có thể trông có vẻ hiệu quả vào lúc đầu, nhưng nếu một người không có khả năng kiểm soát ý thức của mình, thì những nỗi sợ hãi hay ham muốn cũ sẽ sớm quay trở lại, làm sống dậy những lo âu trước đó.
Người ta sẽ không thể xây dựng một cảm giác an toàn nội tại trọn vẹn ngay cả khi mua đứt cho riêng mình một hòn đảo và bố trí quanh đó thật nhiều vệ sĩ được vũ trang và những con chó dữ.
Thực tế là chất lượng cuộc sống không phụ thuộc trực tiếp vào những gì người khác nghĩ về chúng ta hay về những gì ta sở hữu. Thay vào đó, điểm mấu chốt là chúng ta cảm thấy thế nào về bản thân và về những gì xảy đến với mình. Để cải thiện chất lượng cuộc sống, người ta cần phải cải thiện chất lượng của trải nghiệm.
Các thành tố tạo ra cảm giác thưởng thức sâu sắc
- Một, trải nghiệm đó thường xảy ra khi chúng ta đương đầu với các nhiệm vụ mà chúng ta có khả năng hoàn thành.
- Hai, chúng ta phải có khả năng tập trung vào những gì ta đang làm. Hiểu rõ mục đích và cảm nhận đánh giá những phản hồi
- Ba và bốn, sự tập trung thường là khả dĩ vì nhiệm vụ được thực hiện có những mục tiêu rõ ràng và cung cấp sự phản hồi tức thời.
- Năm, người ta hành động với sự dự phần sâu sắc nhưng tốn ít nỗ lực, giúp loại bỏ nhận thức về những nỗi lo lắng và thất vọng trong cuộc sống hằng ngày.
- Sáu, các trải nghiệm thú vị cho phép mọi người rèn luyện cảm giác kiểm soát các hành động của họ.
- Bảy, mối bận tâm về cái tôi tạm thời biến mất, nhưng nghịch lý là cảm giác về cái tôi sẽ trỗi dậy mạnh mẽ hơn sau khi trải nghiệm dòng chảy kết thúc.
- Và cuối cùng, cảm giác về thời gian trôi qua bị biến đổi; hàng giờ đồng hồ trôi qua như trong vài phút và vài phút có thể như kéo dài ra hàng giờ. Sự kết hợp của tất cả các thành tố này tạo ra cảm giác thưởng thức sâu sắc, khiến người ta cảm thấy xứng đáng với việc tiêu tốn một nguồn năng lượng to lớn chỉ đơn giản để cảm nhận được nó.
Sự thưởng thức đến từ bất cứ khi nào cơ hội hành động mà cá nhân nhận thấy là tương đồng với khả năng của họ. Vd: 2 đối thủ ngang tài ngang sức, một bản nhạc dễ nghe,..
Chúng ta nên nhất trí với chính mình về thực tế rằng không có gì trên đời là hoàn toàn tích cực; mọi sức mạnh đều có thể bị lạm dụng. Tình yêu có thể dẫn đến sự tàn nhẫn, khoa học có thể tạo ra sự hủy diệt, công nghệ không được kiểm soát sẽ tạo ra ô nhiễm. Lửa sưởi ấm hoặc làm bỏng; năng lượng nguyên tử có thể tạo ra điện hoặc có thể xóa sổ thế giới. Năng lượng là sức mạnh, nhưng sức mạnh chỉ là một phương diện. Các mục tiêu mà sức mạnh được áp dụng có thể làm cho cuộc sống trở nên phong phú hơn hoặc đau đớn hơn.
Chúng ta phải liên tục đánh giá lại những gì chúng ta làm, không để thói quen và sự hiểu biết của quá khứ làm chúng ta mù quáng trước những khả năng mơi. Tuy nhiên, sẽ là dại dột nếu bỏ qua một nguồn năng lượng chỉ vì nó có thể bị lạm dụng. Nếu loài người cố gắng loại bỏ lửa chỉ vì nó có thể được sử dụng để thiêu hủy mọi thứ thì chúng ta đã không thể tiến hóa vượt trội hơn loài vượn. Như Democritus’ từ nhiều thế kỷ trước đã phát biểu đơn giản: “Nước có thể vừa tốt vừa xấu, hữu ích và nguy hiểm.”
Tuy nhiên, đối với sự nguy hiểm, một biện pháp khắc phục đã được tìm thấy: “học bơi”. “Bơi”, trong trường hợp của chúng ta, bao gồm việc học cách phân biệt các hình thức hữu ích và gây hại của trải nghiệm dòng chảy, sau đó tận dụng tối đa trải nghiệm hữu ích và đặt giới hạn cho trải nghiệm gây hại
Tiên tri là một đặc trưng chung của văn hoá, là một sự nổ lực để vượt ra khỏi những ràng buộc của hiện tại và có cái nhìn thoáng qua về những gì đang xảy ra. Một hoạt động trần tục mà trong đó con người cố gắng khôn ngoan hơn người khác hoặc cố chiến thắng số phận.
Khi nghịch cảnh đe dọa làm tê liệt chúng ta, chúng ta cần giành sự kiểm soát bằng cách tìm một hướng đi mới để đầu tư năng lượng tinh thần vào đó, một hướng đi nằm ngoài tầm với của những tác động bên ngoài. Khi mỗi khát vọng vụn vỡ, con người vẫn phải đi tìm một mục tiêu ý nghĩa quanh mình để tổ chức lại cái tôi của họ. Khi đó, dù khách quan người đó có là một nô lệ, thì anh ta cũng tự do một cách chủ quan.
Một hoạt động thể chất đơn giản cũng có thể trở nên thú vị nhờ các bước biến đổi để tạo thành dòng chảy
Những bước đi cốt yếu trong quá trình xử lý này là:
- (a) lập ra một mục tiêu toàn thể và càng nhiều mục tiêu phụ khả thi trên thực tế càng tốt;
- (b) tìm những cách đo lường tiến độ theo các mục tiêu đã chọn;
- (c) giữ sự tập trung vào những gì đang làm và liên tục tạo ra sự khác biệt rõ ràng hơn trong những thử thách liên quan với hoạt động;
- (d) phát triển kỹ năng cần thiết để tương tác với các cơ hội có sẵn;
- và (e) tăng độ khó nếu hoạt động trở nên nhàm chán.

Tình dục như dòng chảy
Sự “chuyên nghiệp” của hoạt động tình dục đã phát triển lên một tầm cao nhất định. Nhưng nó góp phần rất ít trong việc trực tiếp cải thiện chất lượng trải nghiệm của hầu hết mọi người.
Sự lãng mạn dường như bị giới hạn chỉ ở giới trẻ và ở những ai có thời gian lẫn tiền bạc để đắm chìm trong nó; đại đa số người dân trong mọi nền văn hóa đều có một đời sống tình dục tẻ nhạt. Những người “đứng đắn” trên đời không dành quá nhiều năng lượng cho nhiệm vụ sinh sản hữu tính, hay cho những hoạt động được xây dựng dựa trên nó. Sự lãng mạn cũng giống với thể thao ở khía cạnh này: thay vì tự thực hiện nó, hầu hết mọi người đều thỏa mãn với việc nghe về nó hoặc xem vài chuyên gia trình diễn nó.
Có lẽ đúng khi nói rằng con người, cũng giống như phần lớn động vật có vú khác, về bản chất là không hề có thiên hướng một vợ một chồng. Trừ khi họ nổ lực để khám phá thêm những thử thách mới trong sự bầu bạn cùng nhau và học những kỹ năng thích hợp để làm giàu thêm cho mối quan hệ.
Họ phải đầu tư sự chú ý cho nhau – để có thể đọc được những suy nghĩ lẫn cảm xúc, những ước mơ chất chứa trong tâm trí người thương của mình. Bản thân việc này vốn là một quá trình không bao giờ kết thúc, một nhiệm vụ của cả cuộc đời.
Nếu có điều gì đang xảy ra với triết gia của họ thì đó chính là sự lành mạnh hết sức. Ông không mất trí; ông chỉ lạc vào dòng chảy suy nghĩ.
Nghịch lý về việc làm: Bận/ Rãnh rỗi
Trong công việc, người ta thấy mình có kỹ năng và được thử thách, thế nên họ cảm thấy vui vẻ, mạnh mẽ, sáng tạo và hài lòng hơn. Vào thời gian rảnh rỗi, nhìn chung họ cảm thấy chẳng có gì nhiều để làm và những kỹ năng của họ đang không được sử dụng, nên họ có chiều hướng cảm thấy buồn, yếu đuối, uể oải và không thỏa mãn hơn. Ấy thế nhưng họ lại muốn làm việc ít đi và dành nhiều thời gian hơn để nghỉ ngơi.
Những người học cách thưởng thức công việc của họ, những người không lãng phí thời gian rãnh rỗi, đều cảm thấy toàn bộ cuộc sống của họ trở nên đáng giá hơn. C. K. Brightbill đã viết rằng “Tương lai không chỉ thuộc về người có học, mà còn thuộc về người học được cách sử dụng thời gian rãnh của mình một cách hợp lý”.
Mặc dù con người nhìn chung đều mong mỏi được rời nơi làm việc để đi về nhà, sẵn sàng tận dụng hết thời gian rảnh rỗi mà khó khăn lắm mới có được, nhưng tất cả lại thường chẳng có chút ý tưởng nào về những gì nên làm trong khoảng thời gian đó. Trớ trêu thay, công việc lại dễ dàng để thưởng thức (trải nghiệm tối ưu) hơn là thời gian rảnh, bởi vì cũng giống như các hoạt động dòng chảy, công việc hình thành nên những mục tiêu, phản hồi, luật lệ và những thử thách, mà tất cả những thứ đó động viên người ta chìm đắm vào công việc của họ, để tập trung và quên đi chính mình trong nó.
Trong khi đó, thời gian rảnh rỗi thì không được cấu trúc rõ ràng và cũng chẳng đòi hỏi nhiều nỗ lực để định hình thành thứ gì đó có thể thưởng thức được. Những sở thích cần có kỹ năng những thói quen lập ra các mục tiêu và giới hạn, những mối quan tâm cá nhân và đặc biệt là sự rèn luyện bên trong giúp thời gian rảnh trở thành cơ hội cho sự tái tạo lại, như nó vốn dĩ là thế. Nhưng nhìn chung mọi người đều đánh mất cơ hội thưởng thức thời gian rảnh rỗi thậm chí còn triệt để hơn khi họ đang trong giờ làm việc.
Thưởng thức sự cô độc và mối quan hệ với người khác
Chúng ta là những động vật mang tính xã hội; chỉ khi ở trong mối tương quan với những người khác, chúng ta mới cảm thấy đủ đầy, viên mãn.
Một khía cạnh nổi bật của tập tính cộng đồng: những sự kiện đau đớn nhất cũng là những sự kiện liên quan đến các mối quan hệ.
“Hell is other people” là câu nói nổi tiếng của triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre người Pháp thế kỷ XX. Trong quan niệm của Sartre, tương quan của một người trải qua ba giai đoạn.
- Giai đoạn 1, tôi không ý thức về sự hiện diện của tha nhân (người khác), tôi là trung tâm trong thế giới của tôi.
- Giai đoạn 2, ý thức được sự hiện diện của người khác, tôi vẫn là trung tâm thế giới của tôi nhưng đã có sự hòa trộn với thế giới của người khác.
- Giai đoạn 3, người khác ý thức được sự hiện diện của tôi, tôi trở thành đối tượng nhận thức của người khác, cái nhìn của người khác khiến tôi ý thức về cách mà tôi hiện hữu. Ở đây tương quan giữa tôi và người khác có hai mặt. Một, người khác là mối đe dọa đến thế giới mà tôi tự thiết lập về minh. Hai, người khác nhìn thấy tôi như một sự tồn tại khách quan, họ nắm giữ một phần sự thật về tôi và thu hút tôi trong thế giới của họ.
Một tình huống xã hội có khả năng được biến đổi bằng cách xác định lại các vai trò trong tình huống đó.
Hình thành thói quen sử dụng sự cô độc để đạt được lợi thế
“Bất cứ ai thích thú với sự cô độc thì đó hoặc là một con thú hoang hoặc là một vị thần”
Để tận hưởng được việc ở một mình, một cá nhân phải xây dựng thói quen tinh thần của riêng mình. Người ta có thể vượt qua sự cô độc, nhưng chỉ khi người ta tìm ra cách xếp đặt trật tự cho sự chú ý để ngăn chặn trạng thái entropy phá huỷ tâm trí.
Lee Lacocca được mệnh danh là huyền thoại của nền công nghiệp ô tô nước Mỹ: “Tôi đã có một sự nghiệp tuyệt vời và thành công. Nhưng đặt cạnh gia đình tôi, điều đó thực sự không có gì quan trọng cả”.
Các nhà xã hội học cho rằng lòng trung thành thuộc thân tộc, tỷ lệ thuận với số lượng gen mà hai người bất kỳ có chung với nhau. Điều này để đảm bảo rằng loại gen của dòng họ mình được bảo tồn và nhân rộng. Tuy nhiên, trong khi lập trình di truyền có thể khiến chúng ta gắn bó với các thành viên trong gia đình, thì bối cảnh văn hoá sẽ quyết định rất nhiều tới sức mạnh và định hướng của sự gắn bó đó.
Gia đình có thể khiến chúng ta vô cùng hạnh phúc, cũng có thể là một gánh nặng không thể chịu đựng được. Tuỳ thuộc vào việc các thành viên trong gia đình đầu tư bao nhiêu năng lượng tinh thần vào các mối quan hệ tương hỗ, cũng như vào những mục tiêu của nhau.
Để cuộc sống gia đình mang tính thưởng thức mang tính phức tạp cao, cần các mục tiêu mang tính dài hạn: Xây một ngôi nhà lý tưởng; cung cấp một sự giáo dục tốt nhất có thể cho con cái; hoặc thực hành lối sống tu tập giữa xã hội thế tục hiện đại. Ngoài ra cũng cần cung cấp liên tục các mục tiêu ngắn hạn. Chúng có thể là các nhiệm vụ đơn giản như: mua một chiếc ghế sofa mới; đi du lịch;…
Mục tiêu của gia đình phải mang cả tính biệt hoá (differentiated), lẫn tính tích hợp (integrated). Biệt hoá là mỗi người được khuyến khích phát triển những đặc điểm riêng biệt của mình, tối đa hoá các kỹ năng cá nhân, đặt ra các mục tiêu riêng biệt. Sự tích hợp đảm bảo rằng những gì xảy ra với một người sẽ ảnh hưởng đến tất cả những người khác. Trong một gia đình có sự tích hợp, mục tiêu của mỗi người đều quan trọng đối với tất cả những người còn lại.
Nếu chính cha mẹ tham gia vào các hoạt động phức tạp và dễ hiểu tại nhà
Nếu cha mẹ thích chơi nhạc, nấu ăn, đọc sách, làm vườn, làm mộc hoặc sửa chữa động cơ, thì nhiều khả năng con cái họ sẽ tìm thấy những hoạt động tương tự mang tính thách thức và đầu tư đủ sự chú ý vào các hoạt động đó để bắt đầu tận hưởng được việc làm một việc gì đó mà sẽ giúp chúng phát triển.
Nếu cha mẹ nói nhiều hơn về lý tưởng và ước mơ của họ, ngay cả khi những điều đó đã trở thành vỡ mộng, thì những đứa con cũng có thể phát triển hoài bão cần thiết để thoát ra khỏi sự tự mãn của bản thân ở hiện tại.
Nếu không có việc gì khác để làm, thì thảo luận về công việc hoặc về những suy nghĩ và sự kiện trong ngày và cư xử với lũ trẻ như người trưởng thành, như những người bạn, cũng sẽ giúp chúng trong quá trình xã hội hóa, trở thành những người trưởng thành có suy nghĩ chín chắn.
Nhưng nếu người cha dành toàn bộ thời gian rảnh rỗi ở nhà để sống một cuộc đời vô vị trước tivi với một ly rượu trong tay, con cái sẽ hiển nhiên cho rằng người lớn là những người nhàm chán không biết làm gì để vui về và chúng sẽ tìm đến các nhóm đồng đẳng để tìm kiếm niềm vui thú.
Sự thật rằng, gia đình giống bất kỳ tổ chức chung nào khác, đòi hỏi một sự đầu tư liên tục năng lượng tinh thần để đảm bảo sự tồn tại của nó.
Bất kỳ sự tham gia nào vào lĩnh vực cộng đồng đều có thể mang tính thưởng thức, miễn là người ta cấu trúc nó theo những tham số của trải nghiệm dòng chảy. Điều quan trọng là đặt mục tiêu, tập trung năng lượng tinh thần, chú ý đến phản hồi và đảm bảo thử thách đó phù hợp với kỹ năng của mình. Sớm hay muộn sự tương tác sẽ bắt đầu ngân nga và trải nghiệm dòng chảy sẽ theo cùng.
Khi một chàng trai trẻ hỏi Carlyle rằng anh ta nên cải cách thế giới bằng cách nào, Carlyle đã trả lời, “cải cách bản thân anh.
Theo cách đó, “sẽ bớt đi một kẻ bất lương trên đời”. Lời khuyên vẫn còn nguyên hiệu lực. Những người cố gắng làm cho cuộc sống tốt hơn dành cho mọi người mà không học cách kiểm soát cuộc sống của chính họ trước tiên thường sẽ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn.
Đánh lừa sự hỗn loạn
Tuyên bố rằng bất kể điều gì xảy ra với một người, chỉ cần anh ta kiểm soát được ý thức thì anh ta vẫn sẽ hạnh phúc, là một tuyên bố lý tưởng hóa ngây thơ. Có những giới hạn nhất định trong việc mỗi người có thể chịu đựng nỗi đau, sự đói khát, hay sự mất mát đến chừng nào. Và cũng khá đúng, như Tiến sĩ Franz Alexander đã khẳng định rõ ràng, rằng: “Mặc cho sinh học và y học có phớt lờ khía cạnh tâm trí, thì thực tế rằng tâm trí điều khiển được cơ thể chính là sự thật cơ bản nhất mà chúng ta biết về diễn trình của cuộc sống”.
Một người không trở thành một người đàn ông bằng cách kết hôn, hay làm tình: trở thành một người đàn ông chân chính nghĩa là phải có trách nhiệm, phải biết khi nào cần nói, biết điều gì nên nói và biết khi nào phải giữ im lặng. (Reyad – một người Ai Cập, 33 tuổi. Người có lẽ sống giống Thích Minh Tuệ tại thời điểm này)
Một biến cố lớn làm mất đi mục tiêu trọng tâm của cuộc sống sẽ phá hủy cái tôi, buộc một người sử dụng tất cả năng lượng tinh thần của mình để dựng nên một rào chắn xung quanh những mục tiêu còn lại, bảo vệ chúng khỏi những sự tân công nữa từ số phận; hoặc nó sẽ tạo ra một mục tiêu mới cấp hơn, rõ ràng hơn: vượt qua những thử thách được sinh thất bại. Nếu người ta chọn con đường thứ hai, bi kịch không hẳn là một sự thiệt hại đối với chất lượng cuộc sống.
Sự khác biệt trong cách một người phản ứng lại những sự kiện gây căng thẳng được gọi là “khả năng đối phó” hay “kiểu đối phó”.
Ba loại tài nguyên giúp một cá nhân đối phó với sự căng thẳng
- Sự hỗ trợ sẵn có bên ngoài và đặc biệt là mạng lưới các sự hỗ trợ xã hội (bảo hiểm; sự yêu thương chăm sóc của những người thân,..)
- Nguồn tài nguyên tâm lý của người đó (sự thông minh, giáo dục, những yếu tố về tính cách có liên quan,..)
- Chiến lược mà người đó dùng để đối phó với sự căng thẳng
Có hai cách chính mà con người phản ứng với sự căng thẳng. Phản ứng tích cực được gọi là sự “phòng vệ trưởng thành” được đề xuất bởi George Vaillant, một nhà tâm lý học, người đã nghiên cứu cuộc sống thành công và tương đối thất bại của những sinh viên tốt nghiệp Đại học Harvard trong khoảng thời gian kéo dài tầm ba mươi năm; những người khác gọi phương pháp này là “đối phó chuyển hóa“. Theo những mô hình này, phản ứng tiêu cực với căng thẳng sẽ là sự “phòng vệ nhiễu/loạn thần” hoặc sự “đối phó thoái lui”.
Như Francis Bacon đã nhấn mạnh, trích từ bài diễn văn của nhà triết học theo trường phái khắc kỷ Seneca: “Con người vốn ước ao những điều tốt đẹp từ sự thịnh vượng, nhưng lại ngưỡng mộ những điều tốt đẹp đến từ nghịch cảnh“.
Nhà hóa học được giải Nobel, Ilya Prigogine, gọi các hệ thống vật lý khai thác năng lượng, mà mặt khác sẽ bị phán tán và mất đi trong chuyển động ngẫu nhiên là “các cấu trúc tiêu tán” (dissipative structures). Tận dụng những nguồn năng lượng mà nếu không tận dụng thì sẽ bị mất đi hoặc sẽ chống lại mục tiêu của chúng ta.
Nếu con người không học những mánh khóe khác nhau để chuyển đổi sức mạnh của sự hỗn loạn thành thứ gì đó có thể sử dụng, chúng ta sẽ không sống sót một cách thành công như đã làm được.
Lòng can đảm, khả năng phục hồi, tính kiên trì và phương pháp phòng vệ trưởng thành, hoặc đối phó chuyển hoá – những cấu trúc tiêu tán của tâm trí – là rất cần thiết
Trong cuộc đời của mỗi con người, khả năng chỉ có những điều tốt đẹp xảy ra là cực kỳ mong manh. Khả năng những khát vọng của chúng ta sẽ luôn luôn thành hiện thực thì quá thấp, đến mức không đáng kể. Không sớm thì muộn, mọi người sẽ phải đối mặt với những sự kiện mâu thuẫn với những mục tiêu của họ: những điều gây thất vọng, bệnh nặng, đảo lộn về tài chính và thậm chí là cái chết không thể tránh khói.
Mỗi sự kiện kiểu này là phản hồi tiêu cực tạo ra sự hỗn loạn trong tâm trí. Mỗi sự kiện trên đe dọa cái tôi và làm suy yếu chức năng của nó. Nếu chấn thương đủ nghiêm trọng, người ta có thể mất đi khả năng tập trung vào những mục tiêu cần thiết. Và nếu điều đó xảy ra, cái tôi không còn nằm trong sự kiểm soát nữa. Nếu sự suy yếu ở mức độ nghiêm trọng, ý thức trở nên hỗn loạn và họ “đánh mất lý trí” – thì các triệu chứng khác nhau của bệnh lý tâm thân sẽ xâm chiếm. Trong những trường hợp ít nghiêm trọng hơn, cái tôi bị đe dọa vẫn sống sót, nhưng ngừng phát triển; co rúm lại dưới cuộc tấn công, thoái lui về đằng sau nhiều lớp phòng vệ và sống một cuộc đời vô vị trong trạng thái không ngừng hoài nghi.
Những ai biết cách chuyển hoá một tình huống vô vọng thành một hoạt động dòng chảy mới, có thể kiểm soát được, thì sẽ có thể tự mình tìm vui và vươn lên mạnh mẽ hơn từ những thử thách, có 3 bước chính có vẻ liên quan đến những chuyển đổi như vậy
- Sự tự tin vô thức: chính là một niềm tin tuyệt đối rằng số phận của họ nằm trong tay họ. Họ không tự cho mình là trung tâm; một cách đặc thù; năng lượng tinh thần của họ không dồn vào việc chi phối môi trường của họ nhiều như việc tìm cách để vận hành nó một cách hài hoà.
- Tập trung sự chú ý vào thế giới: không sử dụng hết năng lượng của mình để cố gắng thỏa mãn những gì mà họ tin là nhu cầu của bản thân, hoặc lo lắng về những ham muốn có điều kiện mang tính xã hội. Thay vào đó, sự chú ý của họ luôn tỉnh táo, không ngừng xử lý thông tin quanh mình. Trọng điểm vẫn được thiết lập bằng mục tiêu của một cá nhân, nhưng nó mở rộng đủ để anh ta chú ý và thích ứng với những sự kiện bên ngoài ngay cả nếu chúng không trực tiếp liên quan đến những gì anh mong muốn đạt được. Thái độ cởi mở giúp cho một cá nhân có thể khách quan, có thể nhận thức được những khả năng thay thế, có thể cảm thấy là một phần của thế giới xung quanh.
- Sự khám phá những giải pháp mới: nếu một người hoạt động với sự tự tin vô thức, giữ sự cởi mở với môi trường và gắn bó với nó, thì một giải pháp có khả năng xuất hiện.
Cái tôi có mục đích tự thân
“Cái tôi có mục đích tự thân” là cái tôi dễ dàng nhìn nhận và biến những mối đe dọa tiềm tàng thành những thử thách mang tính thưởng thức và nhờ đó duy trì được sự hài hòa bên trong. Một người không bao giờ thấy buồn chán, ít khi lo âu, dồn hết tâm trí vào những gì đang diễn ra và ở trong trạng thái dòng chảy hầu như mọi lúc thì có thể được xem là có cái tôi có mục đích tự thân. Trên lý thuyết, từ này có nghĩa là “cái tôi có những mục tiêu độc lập” và nó ngụ ý rằng một cá nhân như vậy có tương đối ít những mục tiêu không bắt nguồn từ bên trong cái tôi của họ.
Đối với hầu hết mọi người, những mục tiêu được định hình trực tiếp bằng nhu cầu sinh lý và những thông lệ xã hội, và chính vì lẽ đó mà khởi nguồn của chúng nằm bên ngoài cái tôi. Còn đối với một người có mục đích tự thân, các mục tiêu cơ bản xuất phát từ trải nghiệm được đánh giá trong ý thức và vì vậy mà nó bắt nguồn từ chính cái tôi.
Tìm ra một mục đích có thể thống nhất các mục tiêu của một cá nhân là chưa đủ, người ta còn phải đương đầu và vượt qua được những thử thách của nó. Mục đích phải dẫn đến sự cố gắng; ý định phải được chuyển thành hành động. Chúng ta có thế gọi đây là sự quyết tâm trong việc theo đuổi mục tiêu của một người.
Điều quan trọng không phải là người ta thực sự đạt được nhiều bao nhiêu những mục tiêu mà mình đặt ra; thay vào đó, điều quan trọng là liệu nỗ lực có được tiêu tốn để đạt được mục tiêu thay vì bị phân tán hoặc lãng phí hay không.
Một tư tưởng về cách sống để làm người – làm dân – làm nghề – làm giáo dục | Đúng việc
Tôi mong rằng nó sẽ khiến mọi người suy nghĩ và quan tâm đến vấn đề này. Hoặc hạnh phúc hơn nữa, là nó sẽ giúp người đọc bắt đầu hình dung ra “khung sườn” của một “hệ điều hành”, bắt đầu tìm thấy một con đường, nhìn thấy một phương pháp để biết cách tự kiến tạo “hệ điều hành” của riêng mình, của gia đình mình, của tổ chức mình và cũng từ đó góp phần tạo nên xã hội mình
Tác giả Giản Tư Trung

Hành trình phát triển bản thân của mỗi người chưa bao giờ là dễ dàng..
Để bắt đầu hành trình này, đòi hỏi một sự tỉnh thức, sự kiên trì và minh định, cần đồng đội, cần một quá trình tự bản thân nhìn lại và một trực giác luôn phủ định/ tự vấn chính mình và cần những sự nương tựa vào những điều tốt đẹp của cuộc sống này. Bao nhiêu tính từ – động từ – trạng từ có vẻ “trù tượng” và có phần “mơ hồ, lý thuyết suông” ở trên, dùng để NÓI thì RẤT DỄ, nhưng phải thành thật với “sự rèn luyện – sự hành động thật sự” thì mới có cơ hội cho bản thân mình phát triển – một cách vững vàng.
Chúng ta sẽ dùng đơn vị gì để đo đếm sự phát triển của bản thân mình?
Ở biến số tỉnh thức đầu tiên, cũng đã là một quá trình gian nan, phải trải qua sự trui rèn của hoàn cảnh (môi trường sinh trưởng, điều kiện vật chất – tinh thần): nỗi khổ, niềm đau trong tâm hồn, tổn thương, lo lắng, nỗi buồn, sự tức giận, không cam lòng, chịu đựng, cô đơn, cảm giác nhàm chán, nghi ngờ, phán xét, thất bại, yếu đuối, buông xả,.. phía bên kia của những vực thẩm đó, là một chân trời mới – giúp mình lớn hơn và trưởng thành hơn khi đã vượt qua và nhìn lại.

Tư tưởng then chốt
Những “công việc” quan trọng nhất mà ai cũng phải làm trong đời, chính là: Làm người, Làm dân và Làm nghề. Khi mà những “công việc” này không được coi trọng và có quá nhiều người không làm đúng việc của mình (tức là làm sai việc) thì những gì mà chúng ta đang chứng kiến (như dân gian vẫn thường nói vui là “người không phải người, dân không phải dân, lãnh đạo không phải lãnh đạo, thầy không phải thầy, nghệ sĩ không phải nghệ sĩ, trí thức không phải trí thức, doanh nhân không phải doanh nhân, hay đại học không phải đại học, hiệp hội không phải hiệp hội…”), âu cũng là chuyện không đáng ngạc nhiên mấy!
Khi ta bị hạn chế về chuyên môn hay hạn chế về năng lực làm việc thì sẽ không có nhiều lựa chọn trong công việc, vậy tự do cũng ít đi, và khả năng giữ được mình cũng khó hơn. Như vậy, trở thành một chuyên gia ưu tú trong một công việc hay một nghề nghiệp nào đó cũng là cách để mình có thể trở thành một con người tự do
“ĐÚNG VIỆC” Dành tặng những ai đã, đang và sẽ dấn thân trên hành trình tự lực khai phóng để trở thành con người tự do
ĐÚNG VIỆC đặt ra những vấn đề – tìm ra căn nguyên gốc rễ của những gì diễn ra trong xã hội (con người – tổ chức – gia đình). Quay về với những giá trị cơ bản của con người làm gốc (tính nhân bản với những giá trị trường tồn và bất biến theo thời gian…)
Thật học – thật làm – thật giá trị – SỐNG THẬT
Làm người
Con người là một sinh vật luôn đi tìm ý nghĩa (Sống để làm gì?, Học để làm gì?, làm để làm gì?, Sứ mệnh và giá trị của bản thân ta ở đâu?)
Plato
Không có giới hạn cho lẽ phải. Nó có thể vượt lên trên cả tình đồng loại và là điều mà một con người đúng nghĩa sẽ không ngừng sống và chiến đấu vì nó.
Tôi không đồng ý với quan điểm của bạn, nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền được nói của bạn.
Voltaire – Đại văn hào và triết gia người Pháp
Khi được dẫn dắt bởi “con người bên trong” (lương tri, lương tâm, đạo đức, phẩm giá, phẩm hạnh, giá trị, nhân cách, lẽ sống, lẽ phải,..), ta sẽ trở nên hướng thiện và hướng thượng hơn và đặc biệt là mọi hành vi của ta sẽ không bị phụ thuộc vào ngoại cảnh.
Tự vấn và hoài nghi không ngừng nghỉ về sự hiểu biết của mình có thể giúp con người khai phóng bản thân.
Người ta chỉ vô vọng khi chẳng biết làm gì cả hay khi đặt ra cho mình quá nhiều điều to tát nhưng lại không làm được
Nếu không làm được việc lớn thì sẽ làm việc nhỏ với tình yêu lớn, làm những việc tầm thường với tấm lòng phi thường
Con người tự do/ tự trị khác con người nô lệ (nô lệ cho người khác, cho tiền bạc, cho quyền lực, cho danh vọng,..)
Con người ở bên trong – Mình (lẽ sống, lẽ phải, giá trị sống, nguyên tắc sống, lương tri, lương tâm, phẩm giá, đạo đức, sự tự trọng, sự tôn trọng,…) sẽ vừa là “chân ga” và “chân thắng” để vận hành chiếc xe cuộc đời của mình
Khi Mình chiến thắng được Ta (bản năng sẵn có) một cách ngoạn mục trong những hoàn cảnh “ngặt nghèo – mỏng manh” thì Ta sẽ rất tự hào về Mình.
Để làm được “Người” cần có năng lực “Khai phóng (khai minh và giải phỏng)” và “Khai tâm”
“Khai minh là việc con người đi ra khỏi sự không trưởng thành do chính mình tự chuốc lấy”. Bắt đầu bằng việc tư duy lại, nhận thức lại những quan niệm của bản thân về những vấn đề quan trọng nhất trong cuộc đời.
“Khai tâm – một trái tim có hồn, biết rung lên trước cái hay cái đẹp (nhất là cái đẹp vô hình, cái đẹp không nhìn thấy, không sờ thấy, mà chỉ có thể cảm thấy), biết thổn thức trước những nổi đau, biết phẫn nộ trước cái sai, cái xấu và cái ác”
Thế giới trở nên nguy hiểm, không phải bởi những kẻ gây ra tội ác, mà là vì những người chỉ đứng nhìn mà không làm gì cả
Albert Einstein


Mô hình quản trị cuộc đời
1.Khai phóng bản thân
2.Tìm ra chính mình
a.Con người văn hóa (đâu là lương tri và phẩm giá; lẽ sống; giá trị sống; đâu là “chân ga và chân thắng”… của mình?)
b.Con người chuyên môn (hay con người công việc, nghề nghiệp, sự nghiệp) – áp dụng tư vấn hướng nghiệp
3.Làm ra chính mình
4.Sống với chính mình Giữ được chính mình
Làm việc
“Làm nghề/ làm việc” cũng là “làm người”
Mình có đang hiểu đúng và làm tốt sứ mệnh của nghề/ của việc không?
Mình có đang hiểu đúng và làm tốt sứ mệnh của nghề/ của việc không? (Lãnh đạo hay Cai trị; Trí thức hay Trí nô; Nghệ sĩ; giải trí – nghệ thuật – văn hóa)
Ba cấp độ hạnh phúc khi đi làm
Hạnh phúc khi kiếm được, có được cái mình muốn -> ”To have – chiếm hữu”
Hạnh phúc khi được người khác trân trọng và ghi nhận -> ”To give – cống hiến”
Hạnh phúc khi nhìn thấy thành quả bản thân mình trong kết quả của công việc, thầm kín tự hào về bản thân về những gì mình đã cống hiến -> ”To be – là mình”
Làm Dân
“Nô dân”, “Thần dân” và “Công dân”
Một công dân đúng nghĩa có sự hiểu biết sâu sắc về con người tự do/ tự trị, về hiện trạng xã hội mình đang sống, cũng như biết rằng xã hội đó nên được quản trị như thế nào thì tốt và cùng tham gia xây dựng bộ máy quản trị đó từ vai trò cá nhân và trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Khi người dân sợ chính quyền thì độc tài xuất hiện. Khi chính quyền sợ người dân thì tự do xuất hiện
Thomas Jefferson
Làm giáo dục
Edward Gibbon từng nói: “Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy”.
Khi người học hiểu được rằng “Ta là sản phẩm của chính mình” thì sẽ có thêm niềm tin vào giáo dục.
Bởi có thể phải mất rất nhiều năm để có thể tạo ra một cuộc cách mạng về giáo dục, trong đó cần đến sự tham gia của nhà nước, nhà trường và cả các bậc thức giả trong xã hội. Nhưng một cuộc cách mạng về sự học của cá nhân có thể diễn ra một cách rất nhanh chóng, chỉ bằng sự chủ động và quyết tâm của chính bản thân mỗi người. Bởi đây là cuộc cách mạng “của ta, do ta và vì tá”!
“Happiness is when what you think say and do are in harmony” – Mahatma Gandhi
Hạnh phúc là “Sống thật”, là con người tự do
Tham khảo thêm một số bài nói chuyện của tác giả
•[EduX 2016 – TP HCM] Chia sẻ “GIÁO DỤC, VĂN HOÁ ,VĂN MINH” – NHÀ GIÁO GIẢN TƯ TRUNG
•Nhà giáo dục Giản Tư Trung | Điều gì giúp ta chọn được lẽ sống đúng đắn? | VIETSUCCESS
•Hội Thảo Chuyên Đề Giải Phóng Lãnh Đạo – Thầy Giản Tư Trung
•Bạn đã có thước đo thành công cho riêng mình chưa? – TS. Giản Tư Trung | Vietcetera




